Tầngnền Việt và Tầngphủ Hán
TiếngViệt thườngđược xếpvào ngữhệ NamÁ. Tuynhiên, chính têngọi Việtnam, nghĩalà ‘ngườiViệt phươngNam’, lại gợimở một câuchuyện sâuxahơn. Từlâu trướckhi hai triềuđại Tần và Hán hợpnhất vùngđất mà ngàynay gọi là ‘Trungquốc’, các cộngđồng Việt ở Lĩnhnam và Đồngbằng SôngHồng đã địnhhình sinhthái ngônngữ của khuvực. Bàiviết này chorằng tiếngViệt nênđược hiểunhư một ngônngữ có gốc Việt, được tíchhợp với Hán, chứ khôngphải là một dịbiệt bênlề của nhóm Môn‑Khmer.
Bàiviết này lầntheo nguồngốc Hán‑Việt đến các cưdân bảnđịa Việt, những người tiền-Hán ở miềnnam Trungquốc và miềnbắc Việtnam. Đónggóp ngônngữ của họ cho các ngữhệ tiền-Việt, ngữchi Thái‑Kadai đã tạonên tầngnền của nó, trênđó các lớp Hán sau này đắp chồnglên. Chính têngọi Việtnam, ‘ngườiViệt phươngNam’, đã baohàm sựdunghợp giữa disản vănhoá‑ngônngữ Việt và Hán.
I) Nềntảng Việt
Bằngchứng khảocổ và sửliệu sớm cùng trụlại một bứctranh duynhất: các cộngđồng Việt đã sinhsống ở miềnnam Trungquốc và Đồngbằng SôngHồng hàng thếkỷ trướckhi Tần hợpnhất. Ngônngữ của họ đã đónggóp những môhình âmvị cơbản, từvựng cơbản và thóiquen cúpháp, tạonên nềntảng tiền-Việt, đặtkhung cấutrúc để các lớp Hán sau này được cồnglên.
Các cưdân tiền-Hán thuộc nhóm Việt đã đóngvaitrò như những ‘kiếntrứcsư ngônngữ’ của tiền-Việt, cungcấp các khối âmvị và ngữnghĩa, rồi tiếpxúc và tiếpthu từvựng Háncổ và Hán Trungcổ qua nhiều đợt. Chính ethnonym ‘Việtnam’ đã mãhoá disản kép này, biểuđạt sự liêntục vănhoá dưới các lớp chínhtrị kếtiếp.
Phânloại truyềnthống thường xếp tiếngViệt vào nhánh Môn-Khmer của NamÁ. Bàiviết này xemxét lại cách phânloại đó bằngcách chỉra những tươngứng hệthống về âmvị và ngữnghĩa với tiếngHán, và rộnghơnnữa là các ngônngữ trong ngữhệ Hán-Tạng, chorằng nhiều đặcđiểm mà các họcgiả Âu-Mỹ trướckia gộplại thành ‘NamÁ’, thựcsự thựcthể đó phảnánh nhóm ngônngữ Việt (Yue) tiền-Hán ở Hoanam (華南), chứ không thuầnnhất là một disản Môn-Khmer.
Bảng 1: Dòng dicư và sựdunghợp
| Thờikỳ | Sựkiện | Tácđộng ngônngữ |
|---|---|---|
| Tiền‑Tần-Hán | Việt + tiền-Tạng kếthợp | Hìnhthành phứcthể Hán‑Tạng |
| 111 TCN | Hán thôntính NamViệt | Từvựng Háncổ đivào ngữhệ Việt |
| Thời NhàĐường | Ảnhhưởng Hán Trungcổ | Chuẩnhoá từvựng Hán-Việt |
| 939 SCN | Độclập khỏi NamHán | Phântách tiếng Annam và QuảngĐông |
| TK 10–21 | Các đợt dicư liêntiếp | Hỗnhợp sắctộc, hìnhthành dântộc Kinh |
Các nhóm Môn-Khmer đã dicư vào Đồngbằng SôngHồng khoảng 6000 năm trước, nhưng từvựng của họ giống với tiếngViệt chủyếu qua tiếpxúc vềsau. Tầngsâu của tiếngViệt — môhình thanhđiệu, cấutrúc đaâmtiết, và cốtlõi từnguyên — lại gắnkết chặtchẽ hơn với Việt và HánTạng.
Sựdunghợp giữa cưdân Taic-Việt (Taic-Yue) bảnđịa với những người dicư tiềnTạng đã tạora một phứcthể dântộc-ngônngữ (tộcngữ) mởrộng, gópphần vào vànhđai Hán-Tạng. Từ những tiếpxúc lâudài này đã xuấthiện nềntảng dâncư thườngđược truyềnthống gắnvới các dònghọ tiền-Hán sớmnhất, những người kếthừa chínhtrị của họ vềsau được họcgiả hồicố liênkết chúng với các nền vănhoá đồngthau có niênđại gần 5000 năm.
Để rõràng choviệc phântích, tácgiả dùng ‘Taic’ (Thái) như một thuậtngữ baoquát để chỉ cưdân bảnđịa của vùng. Đến từ phứcthể này đã xuấthiện các nhóm Daic-Kadai (Tày), cộngđồng Việt, và những yếutố saunày được xếpvào Môn-Khmer NamÁ. Các đợt dicư tiếptheo đã đưavào thànhphần tiền-Tạng và những nhântố khác; nhànước Hán tựnó đã kếttinh qua sựdunghợp của Taic + Việt (Yue) + HánTạng. Hìnhthức tộcngữ Việt vìthế phảnánh sựtổnghợp hơnlà một dòngdõi tuyếntính.
Dựatrên bằngchứng khảocổ và từvựng, cộngđồng Việt rõràng có trướckhi các đặctrưng Hán cốtlõi được dunhập. Vănhoá vậtchất, như mườihai congiáp, và những từvựng tươngứng — vídụ /krong/ (‘sông’) ~ 江 jiāng (‘giang’, như Dươngtửgiang, 'Yangzijiang') sovới Hoànghà (黃河) — đã bảotồn ranhgiới giữa Việt và Hán, đồngthời giữlại lớp từvựng tầngnền trong tiếngViệt hiệnđại. (1)
II) Sựdunghợp với Hán
Việcthôntính NamViệt (南 越) của nhàHán ở miềnnam Trungquốc không xoábỏ tiếngViệt bảnđịa ở Giaochỉ phíanam. Thayvàođó, nó chồnglên từvựng Háncổ trên nềntảng Việt, tạora một hệsinhthái từng mảng. Các từvựng Háncổ đã dunhập vào trong thờikỳ đầu Bắcthuộc, và vềsau từvựng Hán Trungcổ (Hán-Việt) được chuẩnhoá trong đời NhàĐường, chúng đã cungcấp cáivốn cho các lĩnhvực hànhchính và vănchương.
NhàHán tựnó là kếttinh từ nướcSở, một nhànước Daic-Việt, và binhsĩ của nó đầy những binhsĩ Sở. Lưu Bang (劉邦 Líu Bāng), vị hoàngđế sánglập, đã nói tiếngSở, vốn là một phươngngữ Taic-Daic. Các nhómngười Việt và Choang ở miềnnam xaxôi đã tiếpthu thứ ngônngữ chung này saukhi bị thôntính.
Những từnguyên gốcViệt vẫncòn tồntại, được bảotồn trong tầng Hán của từvựng cơbản tiếngViệt. Vídụ gồmcó ‘voi’ < 為 wēi (HV 'vi'), ‘chuột’ < 鼠 shǔ (HV 'thử'), và ‘bò’ < 牝 bìn (HV 'tẫn'). Tươngtự, tầng HánViệt (HV) hìnhthành chủyếu qua tiếpxúc thuộcđịa từ thời nhàHán và ảnhhưởng thờikỳ nhàĐường, sinhra những từ như ‘gà’ < 雞 jī (HV 'kê'), ‘buồng’ < 房 fáng (HV 'phòng'), ‘chàilưới’ < 羅 luó (HN 'chài'+'lưới' ), và ‘cỗxe’ < 車 chē (HN 'cỗ'+'xe').
Về mặt xãhội ngônngữ, ngữtầng Việt đã địnhhình những thóiquen cấutrúc, vídụ như trậntự âmtiết và pháttriển đaâmtiết, vốn vẫn còn tồn tại ngaycả khi từvựng Hán Trungcổ được bảnđịahoá. Điều này giảithích vìsao nhiều từ gốcHán trong tiếngViệt vừa biếnđổi về ngữâm vừa biếnđổi về ngữnghĩa: chúng là kếtquả của sự thíchnhập tầnglớp, khôngphải sựsailệch tuỳtiện.
Tổngthể, những sựkiện này khiến chúngta cần xemxét lại tiếngViệt với tưcách một ngônngữ có disản hai tầng: một tầngnền gốcViệt đanxen với các lớptầng Hán tiếptheo. Việc côngnhận bảnchất kép này giúp phântích vượt rangoài danhsách từvựng vaymượn, tiếntới một cáchnhìn tíchhợp về tiếpxúc, hộinhập, và quátrình tổnghợp cấutrúc lâudài trong sự hìnhthành tiếngViệt hiệnđại.
Bảng 2 – Luồng dicư tiền-Tạng và sự tiếpxúc với nướcThục
III) Trungquốc trướckhi có ngườiHán
Trong một thờikỳ xaxưa hơn, các nhóm tiền‑Tạng có nguồngốc từ vùng caonguyên tâynam Trungquốc đã dicư về phíabắc và tiếpxúc với những cộngđồng bảnđịa giápgiới nướcThục (蜀國) thuộc Tứxuyên ngàynay. Những chuyểndịch này đitheo các nhánhsông Dươngtử, và các tổhợp khảocổ biệtlập dọctheo những hànhlang này chothấy một số cộngđồng vềsau đã biếnmất mà không đểlại hậuduệ ngônngữ trựctiếp.
Truyềnthuyết và sửliệu sớm ghilại sựtrỗidậy của nhàÂn (殷朝, 1600 TCN–1046 TCN) và vềsau là các thểchế Thương. Từ khoảng 1225 TCN đến 1220 TCN, ngườiÂn đượccholà đã mởrộng ảnhhưởng xuống vùng Annam cổ. Trong hơn 2000 năm tiếptheo, các nhóm tiền‑Hán nhậpcư đã hoànhập với cộngđồng Taic‑Việt, tạora một matrận tộcngữ phứchợp có trướckhi các nhànước Tiền-Tần và nhàHán củngcố.
Trong vànhđai Việt, có những dònghọ chiasẻ tầngnền Taic với các thuỷtổ của nướcSở; cộngđồng Choang cổ đã gópphần vào sự hìnhthành cả nướcViệt (越國) và nướcĐôngViệt (東越). Khi các nhànước phươngbắc mởrộng, cộngđồng Việt bị dờichuyển và đẩy về phíanam. Sự dunghợp Tần‑Việt và những đợt phânbố dâncư vềsau đã đi theo nhiều hànhlang — từ vùng Yunnan ngàynay qua Chiếtgiang và Phúckiến, rồi xuống Hồbắc, Giangtây, và Giangtô — cuốicùng đến những vùng vềsau liênquan đến giảthuyết NamÁ, Namđảo, NamÁ‑Thái.
Trong toànbộ vànhđai này, các ngônngữ cho thấy những tươngđồng cóthể chứngminh; sự khácbiệt bềngoài thường chỉ phảnánh cách phânloại khácnhau mà họcgiả vềsau đã đặtra. Trong phânloại hiệnđại, các thứ tiếng thườngđược gọilà ‘phươngngữ Hán’ được xếpvào ngữhệ Hán‑Tạng khôngphải vì Hán cótrước Việt, mà vì chúng nằm trong phạmvi họ Hán‑Tạng. Tươngtự, têngọi Việt (越 Yuè) không chỉđịnh một cộngđồng tộcngữ đồngnhất. ĐôngViệt (東越) ở Chiếtgiang và NamViệt (南越) ở Quảngđông là những nước vùngmiền khácbiệt, đều có nguồngốc từ tầngnền Taic chung.
Nguồngốc chung này giảithích sự tồntại những đặctrưng tầngnền và nhiều từđồngnguyên được bảotồn trong sửliệu cổ, trongđó có những từđôi còn lưulại trong Tựđiển Khanghy. Vídụ: 淂 dé (HánViệt ‘đắc’, HN ‘nước’) xuấthiện bêncạnh 水 shuǐ (HánViệt ‘thuỷ’, HN ‘nước’) với trườngnghĩa chồnglấn. Những cặptừ nhưvậy bảotồn dấuvết của ngônngữ bảnđịa cổ từ các nước vềsau bị sápnhập vào hệthống đếquốc — Thục (蜀國), Sở (楚國), Việt (越國), và NamViệt (南越王國) — và phảnánh các liênminh tộcngữ phứchợp từng tồntại ởđó, gồm LạcViệt (雒越), TâyÂu (西甌), ÂuViệt (歐越), ĐôngÂu (東甌), và MânViệt (閩越).
Bảng 3 – ÂuViệt (甌越)
ÂuViệt, hay OuYue (甌越), là một liênminh tộcngữ BáchViệt cổ, sinhsống ở vùng núi phía bắc Việtnam, tây Quảngđông, và bắc Quảngtây (Trungquốc), ítnhất là từ thếkỷ thứba TCN. Tiếngnói của họ đượccholà thuộc ngữhệ Tai‑Kadai. Ở miềnđông Trungquốc, ÂuViệt đã thiếtlập nước ĐôngÂu (東甌). TâyÂu (西甌, ‘Tây’ nghĩa là ‘phía‑tây’) là những bộtộc BáchViệt khác, có tócngắn và xămtay, nhuộmrăng đen, và là tổtiên của các cộngđồng thiểusố nói tiếng "Tai" ở vùngnúi Việtnam như Nùng và Tày, cũng như ngườiChoang ở Quảngtây.
ÂuViệt buônbán với LạcViệt, cưdân của nước Vănlang, nằm ở đồngbằng phía nam ÂuViệt, tức vùng châuthổ sông Hồng ngàynay, cho đến năm 258 hoặc 257 TCN, khi Thục Phán, thủlĩnh của một liênminh bộtộc ÂuViệt, đã xâmchiếm Vănlang và đánhbại vị Hùngvương cuốicùng. Ông đặt tênnước mới là “ÂuLạc”, xưng mình là “Andươngvương” (安陽王, nghĩa là ‘Vua Andương’). Nguồngốc của Thục Phán khôngrõ. Theo sửliệu Việtnam truyềnthống, ông là hoàngtử hoặc vua của nước Thục (蜀國) ở Tứxuyên.
Tuy nhiên, nước Thục đã bị Tần thôntính vào năm 316 TCN, khiến giảthuyết Thục Phán là hoàngtộc nước Thục 100 năm sau trởnên khó có khảnăng. Cóthể câu chuyện vẫn có giátrị nàođó do bằngchứng khảocổ về liênhệ vănhoá giữa Vânnam và tiền‑Việt, nhưng cólẽ vì khoảngcách thờigian giữa lúc câuchuyện phátsinh và lúc nó được ghilại, địađiểm đã bị thayđổi thành Thục hoặc đơnthuần là nhầmlẫn do kiếnthức địalý sai.
Theo một truyện truyềnmiệng của ngườiTày được dịch, phầnđất phíatây của ÂuViệt đã trởthành nước Namcương, có kinhđô ở vùng Caobằng (Việtnam). Thục Phán xuấtthân chính tạiđó. Tínhxácthực của truyện này bị một số sửgia nghingờ. Nó được côngbố năm 1963 dưới dạng bảndịch, trongkhi khôngcó bản gốc bằng chữTày còn tồntại. Tên truyện chứa nhiều từ Việt với khácbiệt nhỏ về thanhđiệu và chínhtả hơn là từ Tai. Khôngrõ bảndịch này dựa trên văn bản nào.
Theo sửgia Trungquốc:
NhàTần đã thôntính nước Sở, thốngnhất Trungquốc. Tần bãibỏ địavị quýtộc của hậuduệ nước Việt. Vài năm sau, Tần Thỉhoàng đã phái 500.000 quân xâmchiếm TâyÂu. Sau ba năm, quân Tần giết thủlĩnh TâyÂu là Dịch Dụtống (譯籲宋). Tuyvậy, TâyÂu vẫn tiếnhành chiếntranh dukích chống Tần và giết tướng Tần là Đồ Tuy (屠睢) để trảthù.
Trướckhi nhàHán xâmchiếm, ĐôngÂu và TâyÂu giànhlại độclập. ĐôngÂu bị nước MânViệt tấncông, và Hán Vũđế đã chophép họ dờichuyển đến vùng giữa Sông Dươngtử và Sông Hoài. TâyÂu nộpcống cho NamViệt chođếnkhi bị Hán thôntính. Hậuduệ của các vua này vềsau mất địavị quýtộc. Các họ Âu (區), Âu (歐), và Âudương (歐陽) vẫn còn tồntại.
Theo sửgia Việtnam:
Năm 257 TCN, Andươngvương (安陽王) đã hợpnhất bộtộc LạcViệt (NamÁ) của các Hùngvương (雄王) với bộtộc ÂuViệt (Tai‑Kadai) thành một bộtộc duynhất — nước ÂuLạc.
Năm 208 TCN, Triệu Đà đã chiếm ÂuLạc và sápnhập nó vào nước NamViệt, vốn do nhàHán caiquản.
Trướckhi thếkỷ thứnhất TCN, thầndân nhàHán đã hìnhthành do sự
dunghợp nhânchủng giữa các nhóm tiền‑Tạng và cộngđồng bảnđịa
BáchViệt, tạora thànhphần cốtlõi của nước Tần. Dâncư này được
hìnhthành từ sáu quốcgia cổ khác, trongđó có đónggóp đángkể từ cưdân
nước Sở, gồm cả người Daic (Tày) và Việt (Yue).
Saukhi nước NamViệt bị sápnhập vào đếquốc Hán năm 111 TCN, các
sắctộc ngườiViệt lại càng hoànhập với thầndân Hán, mởrộng phạmvị
vượt rangoài vùng Lĩnhnam ở phíanam. Quátrình dunghợp này lặplại
liêntục xuyênsuốt khônggian và thờigian.
Thànhphần tộcngữ của nhàHán cólẽ vẫn giữ sự dunghợp tỷlệ tươngtự như đặctrưng của nước Sở vào lúc đếquốc Hán hìnhthành, dù tổng dânsố đã giảm sau nhiều thậpkỷ chiếnchinh. Điều quantrọng là các nhântố Việt‑Daic vẫncòn nổibật trong thầndân nhàHán sau khi Sở sụpđổ, vì bảnthân Sở vốn có nguồngốc là một vươngquốc Daic (ngườiTày). Sựliêntục này có ýnghĩa: hoàngđế sánglập Lưu Bang (劉邦) và nhiều tướnglĩnh cùng binhsĩ dướitrướng của ông vốnlà những chiếnbinh nước Sở, họ đã cùng khángcự quân Tần cho đếnkhi Hán lậpnước. Xuấtxứ đó có hàmý quantrọng về mặt sửtộc.
Tên gọi “Hán” và các danhxưng liênquan bắtnguồn từ Hántrung (漢中), một vùng hẻolánh thuộc Thiểmtây ngàynay. Lưu Bang đãđược Hạng Võ (項羽), vị côngtước cuốicùng thaymặt cho vị vua cuốicùng của nước Sở, bổnhiệm làm Hántrungvương ; vềsau hai vị tướngquân này đã giaochiến trong cuộc Hán-Sở Tranhhùng (楚漢戰爭, 206–202 TCN). Sau khi Lưu Band đánhthắng Hạng Võ phe chiếnthắng đã táchkhỏi bảndanh nước Sở và tựnhận là ‘ngườiHán’, tức những người đitheo thứsử Hántrung. (2)
Nhưvậy, các thựcthể ‘Hán’ xuấthiện đồngthời với những têngọi khác của ‘Tần’, như ‘Tàu’, ‘Tàuô’ — vốn là âmcổ của ‘Qin’ và vềsau chora các dạng ‘Chine’, ‘Sinitic’, ‘Sino’, ‘China’. Những têngọi thaythế như ‘Cathay’, ‘Đường’, hay ‘Thanh’ đãđược dùng trong nhiều thờikỳ khácnhau, nhưng tấtcả những têngọi này chekhuất thựctế rằng thầndân nước Hán vốnlà một kếtcấu chắpvá, được thốngnhất bằng quátrình hìnhthành nhànước và sự dunghợp vùngmiền lâudài, chứ khôngphải bởi một nguồngốc tộcngữ duynhất.
Hình 1: Bảnđồ lãnhthổ các triềudại ở Trungquốc
Source: https://en.wikipedia.org/wiki/File:Territories_of_Dynasties_in_China.gif
Hơn 4000 sau, thầndân của nước Tần (秦國, 206 TCN) mới thốngnhất đã baogồm cả cộngđồng Taic‑Daic của nước Sở (楚國) cùng với hậuduệ Việt, vềsau hìnhthành nước Việt phươngnam (越國) và nước chưhầu Ngô (吳國). Sửliệu Trungquốc về thờikỳ Xuânthu (770–476 TCN) và Chiếnquốc (475–221 TCN) ghilại rằng các nhànước phươngnam này đã tồntại trong quanhệ triềucống lâuđời trước triềuđại TâyChu.
Khi phe Hán thaythế Tần và củngcố quyềnlực trênđất Trunghoa, họ đã ápđặt một ngônngữ quantriều chínhthức. (3). Ngônngữ ấy, vốnđược cholà do Lưu Bang (劉邦) vị hoàngđế sánglập nhàHán sửdụng, có khảnăng là một phươngngữ Sở, tức một tiếng Taic‑Daic phảnánh nguồngốc của vị vua nầy trong lãnhthổ nước Sở. Sau khi nước NamViệt bị sápnhập, các nhóm Việt phươngnam cùng cộngđồng tổtiên Choang đã tiếpthu thứ ngônngữ chung này dưới sựcaitrị của triềuđình. Trong tổhợp NamViệt, chữ Nam 南 nghĩa là ‘phíanam’ và chữ ‘Yue’ 越 nghĩa là ‘Việt’, một sự tươngứng ngữâm được chứngthực trong cả tiếng LạcViệt cổ và tiếng ĐôngViệt (Quảngđông) xưa.
Nhiều từcăn chung của Việt cóthể truyngược về thờitiềnsử, khi các ngônngữ tiền‑Tạng và Việt nguyênthuỷ tiếpxúc với tiếng Việt‑Mường vềsau, vốncó gốctừ tầngnền Taic. Tiền‑Việt từng được nói rộngkhắp vùng Hoanam Trungquốc, phạmvi của nó mởrộng đến các vùng ven Sông Dươngtử, vốnlà quêhương tựnhiên của các cộngđồng Taic cổ. Những dâncư bảnđịa này đã hợpnhất thành BáchViệt (百越), với một danhxưng baoquát dành ho các nhóm phươngnam đadạng gọilà ‘Bod’. (4)
IV) Sựdunghợp Ảnhhưởng TiếngHán
Trong trườnghợp Việtnam, những đợt dicư liêntiếp theo hướng bắcnam trên cả quymô địalý và lịch‑sử đã đẩy các cộngđồng bảnđịa từ vùng đồngbằng màu‑mỡ xuống những khu vực núinon kém phìnhiêu. Sau thờikỳ Tần‑Hán, những người dicư từ nam Trungquốc mang theo ngônngữ riêng của họ, và trong thiênniênkỷ tiếptheo, các ngônngữ này đã hoànhập với những tiếng Tai‑Việt địa‑phương, gồm cả tiếng Dai (Tày), Thái, Nùng, và các phươngngữ Việt‑Mường khác.
Trước năm 939, khi cả Annam và Quảngđông còn thuộc Đếquốc NamHán (南漢帝國), cưdân của họ dườngnhư vẫn hiểubiết lẫnnhau, ítnhất là thôngqua một thứ tiếng Quanthoại vùngmiền. Trong thờikỳ này, các họcgiả Annam đã thamgia vào bộmáy hànhchính và sángtác vănchương tại triều Đường. Tưliệu vănchương và sựxuấthiện của kho từvựng Hán‑Việt (漢越) hoànchỉnh, được truyền từ tiếng Trungcổ trong thếkỷ cuốicùng của NhàĐường, đã chứngthực cho sự dunghợp này.
Nguồn sửliệu cũng chothấy rằng những đợt di‑cư quy‑mô lớn từ nam Trungquốc vào ‘Annam’ đã xảyra khôngchỉ trong thiênniên kỷ thuộc thờikỳ đôhộ của Trungquốc (111 TCN–939 SCN), mà còn tiếptục trong các thếkỷ sau, thậmchí vượtqua năm 1949 và sang tận thếkỷ 21, khi những người laođộng Trungquốc lập nên các khuphố Tàu Chinatown trênkhắp Việtnam.
Sự chuyểntiếp ngônngữ dễdàng này là một hiệntượng đặcbiệt nếu so với các cộngđồng nói tiếng Mon‑Khmer, ngoạitrừ mộtphần ảnhhưởng muộn từ tiếpxúc với các nhóm Mường lánggiềng. Những cộngđồng này, vốn đã tách hỏi các nhóm Việt‑Mường cổ chốnglại sựđôhộ của Hán, đã rútlên vùng núi và cùng tồntại với người Môn‑Khmer. Sựtiếpxúc của họ đã làm táchbiệt những điểmchung đặcthù của Việt vùng đồngbằng khỏi từvựng Môn‑Khmer, mà sự giốngnhau chỉ xuấthiện về sau do tiếpxúc muộn. Bằngchứng khảocổ và sửliệu chothấy rằng các nhóm Mon‑Khmer đã dicư vào châuthổ Sông Hồng khoảng 6000 năm trước (Nguyễn Ngọc San 1993, tr. 43).
Theo thờigian, tiếng Annam bảnđịa chỉ giữlại mộtphần hạnchế các nhântố Việt. Quátrình lâudài hìnhthành quốcgia Việtnam bắtđầu từ thànhphần hỗnhợp của dâncư sơkhai, vốn xuấtthân từ các cộngđồng Việt, LạcViệt, TâyLạc, và ÂuLạc của nước NamViệt. Vìvậy, khó có khảnăng rằng tổtiên của ngườiViệt vẫn còn là những bộtộc Việt thuầnchủng, ngay cả trướckhi trảiqua 1004 năm đôhộ của Tàu kếtthúc vào năm 939 SCN. (5)
Những đặctrưng ngônngữ do các cộngđồng dicư mangđến — các môhình thanhđiệu và đặctrưng ngữâm tiêubiểu của tiếng Quảngđông, Hảinam, Triềuchâu, Amoy, và Phúckiến — đã đivào tiếng Annam như những thànhphần cấutrúc tíchhợp chứ khôngphải chỉlà những lớpphủ bềngoài. Một quátrình thayđổi do tiếpxúc tươngtự quansát thấy trong sựpháttriển của tiếng Quảngđông.
Từ gócđộ ngônngữ, sự traođổi từvựng giữa cộngđồng bảnđịa và cộngđồng dicư đã khiến các nhântố Việt bảnđịa trởthành bổsung cho phạmvi Hán đang mởrộng, thayvì thaythế nềntảng của nó. Quátrình này cóthể sosánh rộngrãi với sựtiếpnhận từvựng Hán vào quátrình hìnhthành kháiniệm của tiếngNhật.
Sau khi giành độclập, cưdân Việtnam — lúc đó được gọi là “ngườiAnnam” — đã thiếtlập một nhànước có chủquyền tươngứng với Việtnam hiệntại (越南 Yuènán), nghĩalà ‘Việt phươngnam’. Cách hiểu này tráingược với quanđiểm nhầmlẫn cho rằng 越南 cónghĩa là ‘tiến xuống phíanam’, một sự nhầmlẫn bắtnguồn từ liênhệ ngữnghĩa với ‘tiến’ hay ‘vượt’. Các phiênâm Háncổ của Việt (越) bao gồm những chữ biếnthể như 戉, 粵, và 鉞, đều chỉ các loại dụngcụ hình rìu, và tấtcả đều liênquan đến ‘Việt’. Sự phânbiệt này táchrời căntính tộcdanh sơkhai khỏi sự mởrộng lãnhthổ vềsau thếkỷ thứ 10.
Qua nhiều thiênniênkỷ, và thôngqua những đợt dicư bắcnam lâudài từ một nhànước gọilà Vănlang — có khảnăng là phiênâm của âmcổ 賓郎 Bīnláng [← ‘blau’ = ‘trầu’, sosánh 檳城 Bīnchéng (‘Bếnthành’ ~ ‘Penang’) hay ‘betel’], nằm ở bắc Việtnam — ngườiViệt vềsau đã hiệntồn như một cộngđồng hỗnhợp. Nguồngốc hỗnhợp này baogồm cả nhântố Chăm và Môn‑Khmer dọctheo hànhlang dicư. Bằngchứng khảocổ và nhânchủnghọc nhấtquán ủnghộ cáchnhìn này, chorằng quátrình hìnhthành tộcngữ Việtnam hiệntại là kếtquả của sự dunghợp tầnglớp chứ khôngphải sự truyềnthừa tuyếntính từ một nhóm duynhất nào đó ở bắc hay nam. (6)
Nhưđãnói, dâncư Annam sơkhai đã hìnhthành qua nhiều thếkỷ hỗnhợp giữa các nhóm Việt bảnđịa và những ngườiHán caitrị. Từ sự hỗnhợp phứctạp này đã xuấthiện cộngđồng Kinh (京族 Jīngzú, 'tộcKinh'), hậuduệ của một quátrình hìnhthành tộcngữ tầnglớp. Sự tươngtác lâudài của các cộngđồng này trởthành một chủđề lặplại trong diễnđàn dântộc, đặcbiệt trong bốicảnh nhiều ngườiHán dicư đã trốnchạy biếnđộng trong các đổithay triềuđại ở Trungquốc, từ sựsụpđổ của nhàĐường vào thếkỷ 10 chođến sựtrỗidậy của chínhquyền cộngsản sau năm 1949, và địnhcư vĩnhviễn tại các vùng lãnhthổ phíanam.
Môhình nhânkhẩu này vẫn tiếptục cho đến hiệntại. Các báocáo chothấy rằng từ năm 1990, có trên một triệu người Trungquốc lụcđịa đã địnhcư lâudài tại Việtnam, theo sốliệu tổnghợp từ các hộinghị thườngniên của cộngđồng Hoakiều tại những thànhphố lớn của Việtnam.
Sựgắnkết lâudài về mặt lịchsử này giảithích cho những từcăn chung được dẫnxuất từ một tầngnền cổ, gần đếnmức mộtsố người đã nhầmlẫn chorằng từcăn Việt có nguồngốc từ tiếngQuảngđông. Thựctế, cả hai ngônngữ đều chiasẻ mộtphần disản lớn từ tiếngHán Trungcổ thời Đường, được củngcố bởi những đợt dicư quymô trong cuộc nổiloạn An Lộcsơn (755–763), vốnđã tànphá vùng Trungnguyên và đẩy nhiều người phươngbắc xuống vùng Lĩnhnam. Vì lýdo này, các cộngđồng sơkhai của người nói tiếng Quảngđông hiệntại đã tựnhận mình cùng với những nhóm Hoakiều khác ở Việtnam là “ngườiHoa” (華人 Huárén), trongkhi ngườiViệt đượcgọi bằng tộcdanh ‘ngườiKinh’.
FHình 2: Bảnđồ Lưuvực Sông Dươngtử
Source: http://en.wikipedia.org/wiki/File:Map_of_the_Yangtze_River.gif
Liênquan đến ngônngữ tiền‑Việtic, sựphânhoá trong các nhóm Việt‑Mường đã đánhdấu một ranhgiới quyếtđịnh giữa những cộngđồng bảnđịa chốnglại sựđôhộ của TriềuHán trên đấttổ và những cộngđồng chấpnhận, hợptác với ngườiHán caitrị. Tươngtự như sự pháttriển của tiếngQuảngđông, các dạng tiền-Hán‑Việt đã được tíchhợp tíchcực vào ngônngữ Việtic cổ, và theo thờigian đã pháttriển thành tiếng Annam sơkhai. Quátrình này diễnra qua nhiều thếkỷ và đạtđỉnh trong thờikỳ tiếngViệt Trungcổ, đặcbiệt thôngqua sựtiếpthu các biếnthể ngônngữ Đời Đường bởi tầnglớp tinhhoa ngườiKinh đang hìnhthành. Nó baogồm sự bảnđịahoá từvựng và cách diễnđạt của tiếngHán Trungcổ, cùngvới những thayđổi dầndần, tinhvi về ngữâm, cúpháp, và ngữnghĩa.
Quátrình này có khảnăng đã bắtđầu trướckhi và tiếptục lâudài sau sựsụpđổ của nhàĐường (618–906). Nó baogồm sựthíchứng và bảnđịahoá kho từvựng Trungcổ trong các thờikỳ đôhộ, phùhợp với quátrình pháttriển rộnghơn của từvựnghọc Hánngữ một quỹđạo được địnhhình bởi những môhình kếttinh ngữâm và ngữnghĩa thayđổi qua các thờikỳ Hán và Đường (Tang Lan 1965, tr. 110).
Do cùng chiasẻ nềntảng lịchsử sâuđậm, các môhình biếnđổi ngữâm của Hán‑Việt và Quảngđông, vốn đều bắtnguồn từ tiếng Trungcổ, dườngnhư đã tiếptục theo những môhình ngữâm tươngtự trong cả vănviết lẫn vănnói. Sựtiếntriển songhành này kéodài ítnhất đến thếkỷ thứ 10, sauđó hai ngônngữ phânkỳ. Trong thờikỳ chung, cảhai đều sửdụng tiếngHán Trungcổ làm ngônngữ giaotiếp của Vươngquốc NamHán. Theo thờigian, kho từvựng của chúng hoặc biếnmất do trùnglặp dưới dạng từđôi đồngnguyên, hoặc ổnđịnh thành những dạng riêngbiệt, như thấy trong Hán‑Việt một bên và cái gọi là ‘ngônngữ đờiĐường’ – nay gắn với tiếng Quảngđông – ở bênkia.
V) Disản Lâudài
Những hìnhthức có nguồngốc Việt được sửdụng trong tầng Hán vẫn tồntại trong từvựng cơbản của tiếngViệt: voi (‘elephant’) < 為 wēi, chuột 鼠 shǔ ‘mouse’, bò 牝 bì ‘ox’. Lớp Hán‑Việt pháttriển chủyếu qua sựtiếpxúc qua hai triềuđại Hán và Đường: gà ‘chicken’ < 雞 jī, buồng ‘room’ < 房 fáng, chài/lưới ‘net’ < 羅 luó, xe ‘carriage’ < 車 chē.
Sosánh với tiếng Quảngđông chothấy disản songhành. SV quốcgia (國家 guójiā, ‘nation’) tươngứng với Quảngđông /gok7ga5/, trongkhi VS nướcnhà (‘nation’) phảnánh cùng gốc, dù thường được hiểulại là ‘nước’ + ‘nhà’. VS gàtrống tươngứng với Quảngđông 公雞 gung1gai1. HánNôm đôiđũa tươngứng với tiếng Hảinam 箸子 zhúzi ‘chopsticks’, dù Quảngđông ưa dùng 筷子 faai3zi2 vì lýdo tâmlinh.
Những tươngứng này chothấy cách các nhântố Việt tầngnền và lớp Trungcổ Hán đã dunghợp khácnhau trong từng ngônngữ. Quảngđông vẫnđuược giữkhưkhư trong họ Ngữ‑Tạng, trongkhi tiếngViệt pháttriển như một ngônngữ có nguồngốc Việt, tíchhợp Hán.
Trong trườnghợp tiếngViệt, những người có ítnhiều tiếpxúc với ngônngữhọc lịchsử cóthể nhậnra các tươngứng này khi được giảnggiải bằng quyluật biếnđổi ngữâm, nhưng họ thường khángcự ýtưởng rằng từ HánNôm nướcnhà có chung gốc với từ HánViệt quốcgia. Sựchốngbáng này mộtphần bắtnguồn từ cách hiểu thivị coi nướcnhà là tổhợp của HN nước (‘water’) và HN nhà (‘home’), phảnánh một tầmnhìn lýtưởng về Việtnam như một vùngđất có chínhtrị đứchạnh, được các nhànho đời Đường catụng trong thica. Cáchđọc này của 水 shuǐ HV thuỷ) và 家 jiā (HV gia), tuy có ýnghĩa ngữnghĩa, lại chekhuất nguồngốc Hán tổhợp 國家 guójiā (HV quốcgia). Bàihọc đầu thếkỷ 20 trong sách Tamthiêntự Kinh cho họcsinh khẩutụng ‘gia/nhà, quốc/nước’ chothấy rằng cặpđôi này đã truyềnđạt một ýnghĩa trừutượng gầnvới ‘quốcgia’.
Dù cách hiểu thơmộng này cóthể chấpnhận về mặt ngữnghĩa, nó lại cảntrở việc nhậnbiết sự liêntục ngữâm nối HN nướcnhà với HV quốcgia và Quảngđông /gok7ga5/. Tăngthêm sựphứctạp cho vấnđề, dạng HV nhànước ngàynay lại đặtnặng ýnghĩa ‘cơquan chínhphủ’, tạo thêm một tầng pháttriển hìnhthái và ngữnghĩa, trongkhiđó tự bảnthân từvị nó đã đảongược thứtự hìnhvị gốc từ ngànxưa đểchỉ kháiniệm ‘quốcgia’.
Baonhiêunăm saukhi Vươngquốc NamHán chấmdứt vào năm 971, và dù Annam đã táchra từ năm 939, tiếng Quảngđông và âm HánViệt vẫn còn giữ những tươngđồng ngữâm đángkể thừahưởng từ tiếng đờiĐường mãivềsau. Tuyvậy, vào thờikỳ đó, hai ngônngữ đã phânbiệt. Một tìnhhuống tươngtự được nghethấy trong biếnthể địaphương của tiếngQuảngđông ở Quảngtây, gọi là Bạchthoại (白話).
Sựchuyểnbiến này bắtnguồn từ sự hỗnhợp tộcngười giaitầng với những cưdân đếntừ phươngbắc của Đếquốc Đại Đường. Vùng Hoanam Trungquốc, đặcbiệtlà Quảngchâu, đã tiếpthu những lànsóng địnhcư lớn do biếnđộng như nạn Loạn An Lộcsơn dưới triềuvua Đường Minhhoàng. Nạnđói lanrộng cànglàm thayđổi cânbằng nhânkhẩu. Cuộcxungđột dẫn đến didời và tửvong hàngloạt, được Bá Dương (1982–1992, Tập 49) ghilại.
Trongkhiđó, tiếngQuảngđông đã trảiqua nhiều giaiđoạn biếnđổi do các yếutố xãhội‑lịchsử baoquanh. Chođến thếkỷ 10, cóthể nóirằng ngườinóitiếng Quảngđông ở Quảngchâu và ngườiAnnam ở Tràngan Kẻchợ (Tonkin) vẫncòn giaotiếp được bằng những dạng ngônngữ Hánhoá như Việt Bạchthoại, như được ghilại trong các tưliệu về tiếpxúc giữa Quảngđông và Quảngtây. Trong tầngnền Việt bảnđịa, một số từcăn cơbản vẫncòn chung giữa tiếng Quảngđông và tiếngViệt.
Bảng 4 – Từcăn tiếngViệt dùng thườngngày của tiếngViệt và tiếngQuảngđông
| HánNôm | chữHán | Âm Quảngđông | Ýnghĩa tiếngAnh |
|---|---|---|---|
| lưỡi | 脷 | /lej6/ | 'tongue' |
| bông | 花 | /fa1/ | 'flower' |
| biếu | 畀 | /pej3/ | 'give' |
| khui | 開 | /hoj5/ | 'open' |
| xơi | 食 | /sik8/ | 'eat' |
| uống | 飲 | /jam3/ | 'drink' |
| thấy | 睇 | /taj3/ | 'see' |
| đéo | 屌 | /tjew3/ | 'curse' |
| ỉa | 屙 | /o5/ | 'defecate' |
Tươngtự, trongkhi tiếngQuảngđông vẫn giữ cách phátâm từ Hán Trungcổ của 走 là ‘zow3’ với nghĩa ‘đi’ trong tiếngViệt, thì tiếng HánViệt tẩu (/təw3/) đã chuyểnsang HánNôm thành chạy (‘run’). Nghĩa này tươngứng với tiếngQuanthoại qù và Quảngđông hoei3/hoeỉ2, và liênkết với âmQuanthoại /qù/ 去 (HánViệt khứ). Mốiliênhệ này mởrộng thành một tậphợp từđôi như HV khu, HV khử, HV khứ, với các biếnthể gồm HN khừ, HN khự, HN khứa, và HN đi, cũng như dạng phụâm của phươngngữ Hànội /xɨ5/. Tiếng Háncổ thời Hán, những từ này cóchung một lõinghĩa thốngnhất, vềsau mởrộng baogồm ‘loạibỏ’, ‘trừkhử’, và ‘cắtđứt’.
Các từcăn bổsung phảnánh tàndư của tầngnền Taic‑Việt trong cả tiếngViệt và tiếngQuảngđông. Hai ngônngữ này đã pháttriển từ những nhánh Tai‑Kadai khácbiệt dàilâu trướckhi ngườinói của chúng hoànhập sống với trong Vươngquốc NamViệt từ năm 204 TCN. Chẳnghạn, 雞公 jīgōng tươngứng với cả VS gàtrống/gàcồ và tiếngQuảngđông cổ /kaj5koŋʷ1/. Sựtươngứng này chothấy một mốiliênhệ Việt chung ở tầngnền, với cả hai hìnhthức đều phátxuất từ cùng một nguồngốc trướckhi Quảngđông bị Hánhoá.
Bảng 5 - Từđồngnguyên và từđồngnghĩa trong phươngngữ
Một chủđề lặplại trong nghiêncứu Hán‑Việt là sự cùng tồntại giữa các hìnhthức HánNôm với các hệthống âm HánViệt. Những từđôi này thường giữ được sự liêntục tầngnền Việt đồngthời thểhiện lớp phủ tiếngHán Trungcổ.
| HánViệt/Hán | HánNôm | Quảngđông | Ýnghĩa tiếngAnh |
|---|---|---|---|
| quốcgia 國家 guójiā | nướcnhà | /gok7ga5/ | 'nation' |
| thuỷ 水 shuǐ | nước | /seoi2/ | 'water' |
| gia 家 jiā | nhà | /gaa1/ | 'home, family' |
| tẩu 走 zǒu | chạy | /zau2/ | 'run, go' |
| kêcông 雞公 jīgōng | gàtrống/gàcồ | /gung1gai1/ | 'chicken, rooster' |
Mộtmặt, môhình ngữpháp hiệntại trongđó tínhtừ đứngtrước danhtừ, như trong tiếng Quanthoại gōngjī 公雞 (= tiếngAnh ‘male bird’), phảnánh ảnhhưởng lớp tiếngHán được đặtlên tầngnền Việtcổ. Trong tiếngViệt, hìnhthức tươngứng là HN gàcồ, theo môhình [danhtừ + tínhtừ]. Cókhảnăng rằng trong giaiđoạn pháttriển sớm, khi cảhai hệthống vẫncòn ở giaiđoạn hìnhthành của tínhđaâm vào cuối thời Háncổ hoặc đầu thời Hán Trungcổ, hai ngônngữ này đãcó sự tươngđồng cấutrúc lớnhơn trong tínhđaâm, đặcbiệt trong tiếngQuanthoại của thờikỳ Hán đôhộ.
Khi từ đaâmtiết trởnên phổbiến hơn, ngườinói tiếngHán phânbiệt các từ đồngâm bằngcách đặt yếutố bổnghĩa trước hìnhvị chính để tạo từ đaâm mới. Ngượclại, tiếngViệt giữ thóiquen Việtcổ là đặt danhtừ trước bổnghĩa, songhành với môhình [danhtừ + bổnghĩa].
Trong cách dùng hiệntại, tiếngViệt và tiếngQuảngđông khôngcòn thểhiện những tươngđồng ngữnghĩa và cúpháp như từng có. Chẳnghạn, thuậtngữ tiếngViệt hiệntại gàtrống đốinghịch với dạng tiếngQuảngđông cổ gung1gai1 (公雞), một sựphânkỳ phảnánh những chuyểnbiến lịchsử trong mốiliênhệ ngônngữ.
Những khácbiệt này còn được địnhhình bởi mứcđộ ảnhhưởng Hán khácnhau. Tácđộng của ngườiHán, cả trướcnăm 111 TCN và trong thờikỳ tiếngHán Trungcổ bắtđầu từ thếkỷ thứ 7, đã đểlại những dấuấn ngữâm và ngữnghĩa lâudài. Chẳnghạn, tiếngViệt vẫn dùng đôiđũa, một thuậtngữ đồngnguyên với 箸子 zhúzi (‘chopsticks’). Ngược lại, tiếngQuảngđông, giốngnhư tiếngQuanthoại, tránh dùng chữ 箸, vì sự tươngđồng ngữâm với đổ 倒 (dǎo, HV ‘đảo’) mang ýnghĩa tiêucực. Thayvàođó, họ ưa dùng kuàizi (筷子) hoặc faai3zi2, trongđó 筷 đồngâm với 快 (kuài, VS ‘mau’), một thuậtngữ gắn với tínngưỡng tâmlinh trong vănhoá Hoanam, đặcbiệt ở những vùng có lịchsử đilại bằng ghethuyền. (7)
Mặcdù tiếngQuảngđông vẫn giữ các yếutố tầngnền Việt tổtiên như tiếngViệt, nó vẫnđược phânloại trong họ HánTạng. Sựphânloại này chủyếu dựavào lớp từvựng Hán Trungcổ phongphú, vốnđã lấnát ảnhhưởng của các từcăn Việtcổ. Xuyênsuốt lịchsử, tiếngQuảngđông baogiờ vẫn nằmlọt trongvòng ảnhhưởng vănhoá Hán và sựcaitrị liêntục cóthể truyngược ítnhất từ triềuvua Triệu Đà của Vươngquốc NamViệt, và vềsau được củngcố bởi những lànsóng dicư trong thờikỳ thịnhvượng của Đếquốc Đại Đường. Vìvậy, khôngcógì ngạcnhiên khi tiếngQuảngđông thườngđược gọi phichínhthức là ‘ngônngữ Đường’ (唐話, QĐ Tong4waa6‑2).
Thựcvậy, việc xếp tiếngQuảngđông vào họ Hán‑Tạng là có cơsở vữngchắc, được địnhhình bởi cả những yếutố địnhlượng và địnhtính. Nhưđãnói, ngoạitrừ phần chiasẻ với mộtsốít từvựng Hán‑Việt cơbản, từvựng lõi của cả tiếngQuảngđông và âm HánViệt đều bắtnguồn chủyếu từ cùng một nguồn Hán Trungcổ. Nguồngốcchung này củngcố sự hiệndiện của tiếngQuảngđông trong khung Hán‑Tạng và, theođó, gợimở việc đánhgiálại xem tiếngViệt cóthể cũng được đặt trong phânloại này haykhông.
Nhiệmvụ hiệntại của những nhàngữhọc, vìthế, là tiếntới những phântích sosánh nhằm đánhgiá vịtrí của Hán‑Việt và Quảngđông trong bốicảnh rộnghơn của ngônngữhọc lịchsử Hán Trungcổ. Về mặt nhânchủng, khi xétđến tầngnền Việt‑trước‑Hán ('Yue'-cổ), cả truyềnthống của ngườiChoang và ngườiViệt đều gợiý rằng ngườiViệt (越, Việt) và ngườiQuảngđông (粵, Jyut) cóthể đã xuấtphát từ những nhánh khácbiệt của Việt (戉 Yuè) trước thếkỷ thứ 2 TCN (xem Truyệncổ Dòng BáchViệt – dchph), về truyềnthuyết thanhkiếm 'Thầncung Bảokiếm'). Các cộngđồng nói Jyut sớm, gắn với Báihuà (白話), nhiều khả năng có nguồngốc Choang (壯族), mởrộng từ QuảngĐông (廣東) sang vùng nay là Quảngtây (廣西). Sựtươngứng giữa hai địadanh này củngcố mốiliênhệ giữa TâyÂu (西甌 Xī'Ōu) và ĐôngÂu (東甌 Dōng'Ōu), trongđó sự tươngđồng ngữâm của 壯 (OC /ʔsraŋs/) và 廣 (OC /kʷaːŋʔ/) phảnánh một môhình liêntục vùngmiền. Tựdanh của người Choang /Bố‑/ đốinghịch với tộcngữ /Bod/ như đãđược bàntới trướcđây.
Sựphânbố của các bộtộc BáchViệt baophủ vùng vốnđược gọilà Lĩnhnamđạo (嶺南道 Lingnan Dao). Đángchúý, một chuỗi từvựng liênkết các thuậtngữ như Bốchuang, Bốthổ, Bốỷ, Bốbản, và Bốviệt với gốc Bod, vốn đồngnguyên với BaiYue, BáViệt, và BáchViệt – những tên từng dùng đểchỉ các dântộc bảnđịa.
Kếtluận
Cũngnhư khôngcó nhóm dântộc nào cóthể tựnhận là hoàntoàn “thuầnHán”, thì cũng khôngcó dòngdõi nào “thuầnViệt” hoàntoàn. Lịchsử Việtnam được đánhdấu bởi sựdunghợp giữa những didân ngườiHán từ Đạilục Trungquốc, và các cộngđồng Việt phươngnam. Chính têngọi “Việtnam”, “ngườiViệt phươngnam”, đã thểhiện disản kép mà chỉcó những dântộc cùng sửdụng chung tổhợp dunghợp từvị Việt-Hán-Tạng này. Vìthế chonên nghiêncứu này sẽ nằmchung trong tuyểntập Ýthức mới về nguồngốc tiếngViệt.
Khác với các cộngđồng ngườiHoa ở những nơikhác ở vùng ĐôngnamÁ, ngườiHoa tại Việtnam hoànhập nhanhchóng – chỉ trong khoảng hai thếhệ, hậuduệ sinhra trên đấtViệt thường tựnhận là dântộc Kinh. Qua nhiều lànsóng địnhcư tiếptục theo hướngnam và sựhoànhập với các nhóm bảnđịa, những cộngđồng hỗnhợp này đã kếttụ thành đasố dântộcKinh, vốn địnhhình nên nước, người, và tiếng Việtnam hiệntại.
TiếngViệt vìthế hiệntồn khôngphải như một dịbiệt Môn‑Khmer, mà như một ngônngữ có sự thừahưởng ngônngữ giaitầng: gốc Việt, lớp phủ Hán, và những quanhệ Hán‑Tạng mậtthiết. Chậpnhận đặtra câuhỏi “TiếngHán Saomà Giống TiếngViệt Đếnthế?” chínhlà thừanhận rằng tiếngViệt đã tồntại trước, và tiếngHán chỉ xuấthiện vềsau trên cùng mảnhđất Hoanam vốn đã thuộc sựthốngtrị của Trungquốc từlâu.
Sách Thamkhảo
- Aitchison, Jean. (1994). Language change: Progress or decay? Cambridge: Cambridge University Press.
-
Alves, Mark J. (2001). What’s so Chinese about Vietnamese? In Graham W. Thurgood (Ed.), Papers from the Ninth Annual Meeting of the Southeast Asian Linguistics Society (pp. 221–242). Arizona State University.
-
Alves, Mark J. (2007). Categories of grammatical Sino‑Vietnamese vocabulary. Mon‑Khmer Studies, 37, 217–229.
-
Anttila, Raimo (Ed.). (1989). Historical and comparative linguistics. Amsterdam/Philadelphia: John Benjamins.
-
Bloomfield, Leonard. (1933). Language. New York: Henry Holt.
-
Bynon, Theodora. (1977). Historical linguistics. Cambridge: Cambridge University Press.
-
Ferlus, Michel. (2012). Linguistic evidence of the trans‑peninsular trade route from North Vietnam. Mahidol University / SIL International.
-
Haudricourt, André Georges. (1954). Comment reconstruire le chinois archaïque. Word, 10, 351–364.
-
Haudricourt, André Georges. (1961). The limits and connections of Austroasiatic in the Northeast. In Norman Zide (Ed.), Studies in comparative Austroasiatic linguistics (pp. 123–140). The Hague: Mouton.
-
Kelley, Liam C. (2012). The biography of the Hồng Bàng clan as a medieval Vietnamese invented tradition. Journal of Vietnamese Studies, 7(2), 87–122.
-
Lü, Shih‑P’eng. (1964). Vietnam during the period of Chinese rule. Hong Kong: University of Hong Kong.
-
Nguyễn, Tài Cẩn. (1979). Nguồn gốc và Quá trình Hình thành Cách Đọc Âm Hán‑Việt. Thành phố Hồ Chí Minh: Nhà xuất bản Khoa học Xã hội.
-
Nguyễn, Tài Cẩn. (2000). Giáo trình Ngữ âm Lịch sử tiếng Việt. Thành phố Hồ Chí Minh: Nhà xuất bản Giáo dục.
-
Sagart, Laurent, & Baxter, William. (2011). Old Chinese reconstruction project. Retrieved from https://ocbaxtersagart.org
-
Sidwell, Paul. (2010). The Austroasiatic Central Riverine Hypothesis. Journal of Language Relationship, 4, 117–134.
-
Sun, Tianxin. (2011). Yuenan Han Ziyin de Lishi Cengci Yanjiu 越南漢字音的歷史層次研究. Taiwan Pedagogy College.
-
Taylor, Keith Weller. (1983). The birth of Vietnam. Berkeley: University of California Press.
-
Wiens, Herold J. (1967). Han Chinese expansion in South China. USA: Shoe String Press.
CHÚTHÍCH
(1)^ Vídụ, dạng nguyênthuỷ /krong/ có quanhệ đồngnguyên với cả tiếngViệt ‘sông’ và chữHán 江 jiāng (HV ‘giang’, QĐ /kong1/). Trongkhi dạng thứnhất được thừanhận như đã trìnhbày, dạng thứhai cóthể chứngminh qua bộphận ngữâm 工 gōng (HV ‘công’). Sự tươngứng ngữâm này không cầnphải chứngminh thêm, vì biếnthể phátâm từ 工 /kong/, vốn gópphần vào cấutrúc ngữâm của 江 jiāng, củngcố thêm tínhhợplý của gốc từnguyên Việt tiền‑Hán làđã tồntại trướcđó.
(2)^ Hántrung: Trong thờikỳ
Tần‑Hán, Quận Hántrung (漢中郡) phíatây bắtđầu từ Miệndương Dươngbìnhquan,
phíađông đến Vânquan và Kinhsơn, kéodài hàng nghìn dặm. Thời nhàTần đã
thiếtlập Quận Hántrung, trịsở đặt tại Namtrịnh, gần khuvực Huyện Namtrịnh
thuộc thànhphố Hántrung ngàynay. Cuối nhàTần, các thếlực chínhtrị tranhgiành;
sau yếntiệc Hồngmôn, Lưu Bang (劉邦) đã xưngthần với Hạng Võ (項羽), và Hạng
Võ phong ông làm Hánvương. Sửký ghilại rằng Lưu Bang khá thấtvọng, mưusĩ Tiêu
Hà (蕭何) khuyênrăn: “Ngạnngữ có câu ‘Thiên Hán’, danhxưng ấy rất đẹp.”
Trong thờikỳ ở Hántrung, Lưu Bang ẩnnhẫn chờthời, ápdụng chiếnlược của Hàn Tín
(韓信) “Minh tu sạnđạo, ám độ Trầnthương”, phong Hàn Tín làm đạitướng, rồi
bấtngờ tấncông chiếm ba vùng Tần, cùng Hạng Võ tranhhùng, sử gọi là “Hán-Sở
Tranhhùng”. Cuốicùng Lưu Bang giành thắnglợi quânsự; vì nguyên phongđịa của
ông ở Hántrung nên được gọi là Hánvương. Sau khi dờiđô đến Trườngan và lập
triềudại thốngnhất thứhai trong lịchsử Trungquốc, quốchiệu được gọi là
“Hántriều”, và Lưu Bang đượcxưng là “Hán Caotổ” (漢高祖).
Ngàynay, “Hántộc” của Trungquốc chính là têngọi bắtnguồn từ Hántriều; Hántrung
là cộinguồn của danhxưng ngườiHán, và còn lưugiữ nhiều ditích, hiệnvật đời Hán
như Bái Tướng đàn (nơi Lưu Bang bái Hàn Tín), Hán Đài, sạnđạo, v.v. Vào thờikỳ
Hán Vũđế, người Thànhcố là TrươngKhiên (張騫) đã đisứ Tâyvực, trởthành sựkiện
đánhdấu sựhưngkhởi của “Conđường Tơlụa”. (Nguồn: Wikipedia)
(3)^ Political Influence on Linguistic Policy: The People's Republic of China's language policies under Xi Jinping's administration (beginning in 2017) explicitly restricted local TV programs from broadcasting in regional dialects, mandating exclusive use of Northern Putonghua. This exemplifies political intervention in linguistic development, a subject explored in greater depth in forthcoming chapters.
(4)^ "Bod" is simply another form of the name
“Bak,” as in 百姓 (Baixing), 百越
(BáchViệt or BaiYue), discussed by Lacouperie
(ibid., see Chapter 9):
"Bak was an ethnic and nothing else. We may refer, as proof, to the similar name — rendered, however, by different symbols — which they gave to several of their early capitals: PUK, POK, PAK, all names known to us after ages, and whose similarity to Pak and Bak cannot be denied. In the region from which they had come, Bak was a well‑known ethnic name; for instance, Bakh in Bakhdhi (Bactra), Bagistan, Bagdada, etc., and it is explained as meaning 'fortunate, flourishing."
This interpretation aligns with what the same author discusses in Chapter Six (Lacouperie, ibid., pp. 116‑119) concerning the ancestral Bak of the early Chinese, in contrast to the pre‑Chinese populations.
(5)^ Linguistic Considerations in Transliteration: In this paper, all transliterations of historical names follow Mandarin pronunciations for ease of reference, though their modern phonetic forms may not accurately reflect how they were originally spoken. For instance, the contemporary
- Yue (越, 粵, 戉, 鉞) → Viet
- NanYue (南越) → NamViệt
- OuYue (歐越) → ÂuViệt
- Annan (安南) → Annam
- LuoYue (雒越) → LạcViệt
- MinYue (閩越) → MânViệt
- DongYue (東越) → ĐôngViệt
- WuYue (吳越) → NgôViệt
Additionally, phonetic reconstructions vary, and not everyone agrees on the ancient pronunciation. Some scholars propose /Viet8/, while others favor /Jyet8/ or /Jyut6/. This uncertainty is reflected in modern Vietnamese dialectal pronunciation, where Việt is articulated differently in the southern sub-dialect, alternating between /v-/, /j-/, and /z-/.
(6)^ Yue Loanwords in Chinese: Examples of Yue-derived loanwords in Chinese include:
- đường: 糖 táng (sugar)
- dừa: 椰 yě (coconut)
- trầu: 柄榔 bīngláng (betel nut, cf. Muong 'blau')
- sông: 江 jiāng (river, cf. Muong 'krong')
- chó: 狗 gǒu (dog, cf. Proto-Vietic */klo/).
(7)^ Wiktionary: Etymologically, the Old Chinese words for "chopsticks" were 箸 (OC *das) and 梜 (OC *keːb). 箸 is preserved in almost all Min dialects (Taiwanese tī, tū; Fuzhou dê̤ṳ) and some other dialects, especially those in some contact with Min; it is also preserved in loans to other languages, e.g. Korean 젓가락 (jeotgarak), Vietnamese đũa and Zhuang dawh. Starting from the Ming Dynasty, the change to 筷子 occurred in Mandarin, Wu and some Cantonese dialects. The 15th century book Shuyuan Miscellanies (《菽園雜記》) by Lu Rong (陸容) mentioned this change: 如舟行諱「住」……,以「箸」為「快兒」 As mariners regarded 住 (zhù, “to stay; to stop (in the sea)”) as a taboo […], they called 箸 (zhù, “chopsticks”) 快兒 (lit. "quick + diminutive suffix"). The bamboo radical (竹) was later added to 快 to form 筷.

