Saturday, November 22, 2025

Hán‑Việt: Xácđịnh Tầng Hán trong TiếngViệt

Nguyêntắc Đaâmtiết và Sựthừahưởng Kép


by dchph in collaboration with Copilot





Bàiviết này lậpluận rằng Hán‑Nôm (HN) khôngchỉ là lớp từvaymượn mà là một hệthống cấutrúc toàndiện, baogồm cả Hán-Việt (HV), phươngngữ, các khoản từvaymượn Tiền‑Hán, và từđôi đồngnguyên, đã địnhhình nền tảng tiếngViệt. (1)

Phươngpháp đaâmtiết và nhóm hạtnhân được giớithiệu như một côngcụ để truytìm các tầng từnguyên. Các trườnghợp nghiêncứu chothấy phạmtrù Hán‑Nôm góp phần địnhhình lại các cuộc tranhluận về nguồngốc NamÁ saukhi sosánh ngữhệ Hán‑Tạng và nhấnmạnh sự thừahưởng disản kép của tiếngViệt (xem dchph - Disản Kép của TiếngViệt).

I) Dẫnnhập

Hán‑Nôm, baogồm những phạmtrù dướiđây, chỉ toànbộ lớp từvựng gốcHán đãđược bảnđịahoá trong môitrường tiếngViệt. Phạmtrù này nớirộng phạmvi Hán‑Việt baogồm nhiều giaitầng từnguyên khácbiệt:

  • Hán‑Việt (HV): Một hệthống được quyđịnh dựatrên ngữâm Hán Trungcổ, hoạtđộng trong tiếngViệt giốngnhư các từvaymượn gốc Hy‑La trong tiếngAnh.

  • Các hìnhthức tiền‑Hán‑Việt: Những khoản từvaymượn cổ từ thời Tiền‑Tần và Hán, với nhiều từ có nguồngốc Háncổ hoặc Việt‑Thái.

  • Các hìnhthức songhành: Từđồngnguyên (haylà từđôi) trongđó gồmcó dạngthái khẩungữ và vănviết, và dạngđôi thôngdụng tại địabàn nhỏ nên cóthể còn mangthêm tínhphươngngữ, khẩuâm địaphương, và đôikhi khácnghĩa.

Phạmvi của Hán‑Nôm vìthế baogồm tấtcả các từ đơnâm và đaâm gốcHán đãđược thuầnhoá trong tiếngViệt, kểcả những hìnhthức giốngvới cáchđọc Hán‑Việt nhưng vượt rangoài các mục từ Hán-Việt quyđịnh trong từđiển Hán‑Việt, kể cả Từđiển Việt‑Tàu.

Bảng 1 – Sosánh tiếngHán → Hán-Việt → Hán-Nôm → Đổimới ngữnghĩa


chữHán (Pinyin) Hán‑Việt
(HV)
Hán-Nôm (HN) Đổi ngữâm‑ngữnghĩa / Ghichú (nghĩa tiếngAnh)
房 fáng phòng buồng ‘room, chamber’ — chuyểnđổi quytắc /b → f/
岸 àn ngạn cạn, bến ‘riverbank’ — SV → VS đanguyên
罷 bā bãi bỏ, mà ‘strike, stop, cessation’ — mởrộng ngữnghĩa
畢 bí tốt rốt ‘graduation, completion’ — chuyểnđổi quytắc b → t
必 bì tất phải ‘inevitable, must’ — chuyểnđổi quytắc b → t
季 jì quý mùa ‘season, quarter’ — chuyênbiệt ngữnghĩa
節 jié tiết khớp ‘festival, node’ — mởrộng ngữnghĩa
偏 piān thiên nghiêng ‘bias, leaning’ —chuyểnđổi bấtquytắc /p → th/
匹 pí thất bốn, xấp ‘pair, match, lone’ — chuyểnđổi bấtquytắc /p → b-, th/; (Việt.) 'số 4'
起 qǐ khởi dậy ‘rise, begin’ — hìnhthức HV ổnđịnh /q- ~ kh-, d-(j-)/
兄 xiōng huynh anh ‘elder brother’ — lượcbỏ /hw → Øʔ/
煽 shǎn phiến phực ‘incite, fan’ — chuyểnđổi quytắc /sh → ph/
攝 shè nhiếp nhặt ‘act for, take’ — chuyểnđổi quytắc /sh → nh/
濕 shì thấp sấp ‘damp, humid’ — chuyểnđổi quytắc /sh → th/
灣 wān loan vịnh ‘bay’ — hìnhthức HN ổnđịnh /l- → v-/
熄 xí tức tắt ‘extinguish’ — chuyểnđổi quytắc /x → t/
學 xué học nhái ‘study, learning’ — bấtquytắc /h → nh/
左 zuǒ tả trái ‘left’ — cóthể tráođổi /t → tr/
郵 yóu bưu vưu, “bót” ‘postal’ — mởrộng ngữnghĩa hiệnđại
貓 māo miêu mèo HN ‘mèo’ cho phươngngữ hằngngày; HV miêu trong vănhọc
卯 mǎo mão mẹo, mèo Bản Congiáp vs. phươngngữ; tầngđôi
佛 Fó Phật bụt Tôngiáo chínhthức vs. cổâm dângian; từ Ấnđộ vaymượn thờixưa qua Háncổ
婦 fù phụ bụa, vợ HN thôngdụng hằngngày; mởrộng ngữâm‑ngữghĩa
車 chē xa xe, cộ Đảongữ và từđôi cùng tồntại trong phươngngữ
公 gōng công ông; trống; cồ; cụ Thuậtngữ thânthuộc và độngvật bảnđịa; mởrộng ngữnghĩa


Trong bảng phântích này, Hán‑Việt mởrộng khôngchỉ là một tậphợp vaymượn mà là một hệthống giaitầng. Nó kếthợp những yếutố nềntảng bắtnguồn từ tầngnền Việt (Yue), tíchhợp các thànhphần Háncổ, và được phongphúhoá thêm bởi lớp Hán‑Việt của những khoảnvay Hán Trungcổ. Nó cũng baogồm các từvựng được giớithiệu thôngqua tiếpxúc với các phươngngữ Quanthoại phươngbắc trong suốt 10 thếkỷ Bắcthuộc do ngườiHán caitrị ở Annam (111 TCN–939 SCN). Theo thờigian, những tầnglớp này pháttriển dưới ảnhhưởng của các triềuđại nốitiếp, hìnhthành một hệthống tươngtự với các tầng Hánngữ baogồm tiếngQuảngđông và tiếngPhúckiến.

Theo quyước, thuậtngữ Hán‑Việt (漢越) đểchỉ riêng cáchđọc từvựng Hán của tiếngViệt cóhệthống, giốngnhư các từgốc Hy‑La trong tiếngAnh. Những hìnhthức này phảnánh ngữâm Hán Trungcổ được lọcqua hệthống thanhâm tiếngViệt, songhành với cách tiếngQuảngđông pháttriển cùng từ một nguồn phátâm cungđình. Trongkhiđó, “tiếng HánViệt” là một phiênbản songhành do các quan saidịch và nhàNho Annam dùng để giaotiếp với quanlại ngườiHán thời Bắcthuộc nay chỉ được dùng để đọc âm  “Hán-Việt”. 

Mỗi giaitầng từvựng đều  có tínhlịchsử riêng của nó. Thuậtngữ “Việt” (越, 粵, 戉, 鉞, v.v.) đượcdùng trong các kinhđiển Hán về tiếngnói “NamMan” là để chỉ tầngnền bảnđịa phươngnam mà trênđó lớp HánViệt ápđặt được mởrộng biếnđổi thành “tiếng HánNôm”. Chứngcứ khảocổ và vănbản chothấy các cộngđồng Việt đã tồntại trước thựcthể ngônngữ‑dântộc (tộcngữ) mà nay gọilà “Trungquốc” qua hàng thiênniênkỷ. Các têngọi như Hán‑, hay Sino‑ hoặc Sinitic- trong tiếngAnh, vìthế nên được hiểunhư kýhiệu họcthuật: khônghoànhảo nhưng hữuích cho mụcđích sosánh. Trong bốicảnh tiền‑Tần, “Trungquốc” là một cáchgọi philịchđại, nhưng vẫnlà thuậtngữ dễtiếpnhậnnhất cho côngchúng họcthuật rộngrãi.

Từnguyên của nhiều từ tiếngViệt nềntảng ngàynay được phânloại thuộc ngữhệ NamÁ (Môn‑Khmer) cóthể thựcra bắtnguồn từ một gốcViệt chung. Tầngnền giảđịnh này thuộc ngữ chi Việt‑Thái (Taic-Yue) này cótrước tiền‑Việt (pre-Vietic) và đã đónggóp cho cả nhóm Việt‑Mường và các ngônngữ Thái (Tày) có gốc Daic-Kadai khác. Các yếutố của tầngnền này cũng cóthể nhậnthấy trong các phươngngữ Hán phươngnam, gợimở một mốiliênhệ trongvùng sâuhơn.

Trên thựctế, từ Hán-Nôm – tứclà Hán‑Việt mởrộng – và Hán‑Việt chuẩn hoạtđộng songhành. Chúng bổtrợ lẫnnhau qua các phongcách, từ vănbản cổđiển đến lờinói riêng của mỗi phươngngữ hiệnđại, nhấnmạnh mứcđộ mà căntính tiếngViệt được đanxen với chấtliệu ngônngữ Hán, vídụ:

  • mẹo, mèo: 卯 mǎo (HV mão) sovới 貓 māo (HV miêu, HN mèo) cho ‘mèo’

  • mẹo  móu (HV mưu) sovới (1) mưulược, (2) mánhlới, (3) mưuchước 謀略 móulüè (HV mưulược)

Việc phânloại tiếngViệt từlâu đã gây nhiều tranhluận. Từkhi Haudricourt (1954) chứngminh sự hìnhthành thanhđiệu của tiếngViệt hoàntất vào thếkỷ thứ 12 mà quanđiểm chủđạo của ông đã đặtđể tiếngViệt thuộc ngữhệ NamÁ. Tuynhiên, sựgắnkết này chưabaogiờ hoàntoàn khôngbị nghivấn. Sựhiệndiện phongphú đadạng của các yếutố Hán-Tạng, Thái‑Kadai (Daic-Kadai), và Namđảo làm phứctạp bứctranh. Dù các khảosát gầnđây vẫnlà nhấnmạnh gốc NamÁ, quymô tolớn của thànhphần Hán chiếm 80–95% từvựng tiếngViệt hiệnđại, đòihỏi một khung phântích rộnghơn.

Bàiviết này vìthế đềxuất Hán-Nôm — tứclà Hán‑Việt mởrộng nên baogồm cả tiếng HánViệt và Nôm — một phạmtrù chínhxác hơn đểcho dễdàng phântích. Khác với phạmvi nhỏhơn của Hán‑Việt chuẩn, Hán-Nôm baogồm HánViệt, các phươngngữ, khoản từvaymượn tiền‑Hán, và các từđôi đồngnguyên songhành. Bằngcách nhấnmạnh tínhđaâm của chúng, chúngta cóthể truytìm sự sắpxếp giaitầng lớplang ngữnghĩa và ngữâm là những thứ đã địnhhình tiếngViệt như một ngônngữ thừahưởng kép, bắtcầu giaothoa giữa NamÁ, Việt, và Hán‑Tạng.

II) Vượtrangoài vaymượn

Các nghiêncứu về những trườnghợp kểtrên chothấy rằng Hán‑Nôm khôngphải là một tầng vaymượn thụđộng mà là một hệthống cấutrúc. Sự cùng tồntại của các hìnhthức phươngngữ, thổngữ, và vănhọc songhành với các từđồngnguyên trong tiếngQuảngđông (cáchđọc phươngngữ vs. vănhọc), gợimở rằng tiếngViệt nênđược phântích cùng với các phươngngữ Hán phíanam thayvì táchbiệt rakhỏi chúng. 

Tầngnền Việt (Yue) làm phứctạp thêm việcphânbố. Nếu các ngônngữ Việt (Yue) vốn thuộc Taic–Kra‑Dai hoặc Hán‑Tạng, thì tiếngViệt thừahưởng khôngchỉ các đặcđiểm NamÁ mà còn gồmcả những giaitầng Hán‑Tạng sâuxa. Điều này ủnghộ môhình thừahưởng kép, mởlại tranhluận về việc tiếngViệt cónên tiếptục được xếpvào NamÁ hay cầnđược xemxét lại như mộtphần của ngữhệ Hán‑Tạng rộnghơn.

A) Giảthuyết NamÁ

Năm 1954, André‑Georges Haudricourt côngbố côngtrình độtphá La place du Vietnamien dans les Langues Austroasiatiques, vốnđã làm thayđổi vĩnhviễn cách phânbố tiếngViệt. Ông phụcdựng hìnhthái ngữngôn Vietic và sauđó nhấnmạnh những tươngứng ngữâm NamÁ. Ông lậpluận rằng tiếngViệt thuộc họ NamÁ, cụthể là nhánh tiếngViệtcổ, nằm giữa nhóm Palaung‑Wa ở phía tâybắc và nhóm Môn‑Khmer ở phía tâynam.

Đónggóp có ảnhhưởng nhất của Haudricourt là lýthuyết về sự hìnhthành thanhđiệu (tonogenesis). Ông chứngminh rằng thanhđiệu tiếngViệt khôngphàilà thừahưởng từ tiếngHán mà pháttriển thứcấp từ sự mấtđi các phụâm cuối và thanhhầu, một quátrình cũngđược chứngthực trong các ngônngữ NamÁ khác. Pháthiện này chothấy thanhđiệu cóthể xuấthiện tựnhiên từ sự bàomòn ngữâm, khôngcần đến nguồngốc Hán.

Hệquả khẳngđịnh của Haudricourt: tiếngViệt khôngphải là ngônngữ Hán về mặt ditruyền. Hệthống thanhđiệu và phầnlớn ngữâm của nó cóthể được giảithích bằng các quátrình lịchsử NamÁ, trongkhi khốilượng lớn từvựng Hán chỉ là một lớpphủ vềsau. Haudricourt từđó đã táilập khuônmẫu tiếngViệt như một ngônngữ NamÁ với một siêutầng Hán nặngnề (giốngnhư trườnghợp của tiếng Quảngđông và các phươngngữ Phướckiến), thayvì đólà một “ngônngữ hỗnhợp” hay một “ngữchi khác của tiếngHán”.

Từđóđếnnay giảthuyết này trởthành nềntảng phânbố tiếngViệt trong ngônngữhọc hiệnđại. Các nhàngônngữhọc như Michel Ferlus, Mark Alves, và Laurent Sagart đã tinhchỉnh hoặc tháchthức mộtsố khíacạnh trong môhình của Haudricourt, nhưng giảthuyết NamÁ của ông vẫnlà cơsở để đolường các quanđiểm thaythế, kểcả giảthuyết Hán‑Tạng hoặc tầngnền Việt (Yue).

Tácgiả bácbỏ nhậnđịnh của Haudricourt chorằng thanhđiệu tiếngViệt chỉ ổnđịnh vào cuối thếkỷ thứ 6. Chúngnó đã xuấthiện cùng thời với tiếngHáncổ chính dunhập vào Việtnam kểtừ thời Bắcthuộc bắtđầu. Lýdo rất rõràng: chứngcứ từ từvựng tiền‑HánViệt chothấyrằng phần lớn các mụctừ đã biểuhiện ítnhất bốn thanhđiệu phânbiệt ở các thanh thấp, thayvì đủ támthanh chiađều cho cả thanh cao và thấp. Hơnnữa, các môhình vaymượn sẽđược thảoluận sauđây sẽ bácbỏ giảthuyết của Haudricourt.

B) Môhình vaymượn

Ngônngữhọc Việtngữ truyềnthống thườngxem các yếutố Hán trong tiếngViệt như những “từvaymượn”, nhưng môhình vaymượn máymóc này khônggiảithích được độrộng và độsâu của sự tíchhợp Hán‑Việt trong tiếngViệt.

Cách miêutả xưanay về từvựng Hán‑Việt thường dựavào cáigọilà môhình “khoảnvaymượn máymóc”, trongđó giảđịnh rằng từ Hán dunhập vào tiếngViệt giốngnhư cách các từ Hy‑La đivào tiếngAnh, hoặc như cách cáchđọc Hán‑Hàn và Hán‑Nhật được truyềntải: thôngqua việc ghinhớ các chúgiải vănbản, phầnlớn táchrời khỏi thựctế giaotiếp trong vănnói. Tuynhiên, môhình này đã tỏra không đầyđủ đốivới trườnghợp tiếngViệt. Như luậnán tiếnsĩ của John Duong Phan tại Cornell Lacquered Words: The Evolution of Vietnamese Under Sinitic Influences (2013; phổbiến rộng từ 2018) đã chứngminh, quymô và độsâu của tầng Hán trong tiếngViệt khôngthể giảithích chỉ bằng vaymượn họcthuật máymóc. Thayvào đó, tiếngViệt đã hấpthụ từvựng Hán qua nhiều thếkỷ tiếpxúc songngữ liêntục, thích-ứng thổngữ, và những biếnđổi ngữâm tầnglớp. Kếtquả khôngphải là tàndư của các chúgiải họcthuật mà là một hệthống sốngđộng của sự tíchhợp ngữnghĩa và ngữâm vốn đã địnhhình trong cấutrúc của Việtngữ.

Trong luậnán Cornell của mình, John Phan đã tháchthức giảđịnh lâuđời rằng từvựng Hán‑Việt đivào tiếngViệt chỉ thôngqua việc ghinhớ chúgiải vănbản, như trong trườnghợp Hán‑Hàn hoặc Hán‑Nhật. Phan lậpluận rằng môhình “vaymượn máymóc” này khôngthể giảithích được quymô và độsâu của sự tíchhợp Hán trong tiếngViệt, nơi mà có đến baphầntư từvựng có nguồngốc Hán.

Thayvào đó, ông chứngminh rằng tiếngViệt đã hấpthụ từvựng Hán qua nhiều thếkỷ tiếpxúc songngữ liêntục, thích-ứng thổngữ, và những biếnđổi ngữâm tầnglớp. Kếtquả khôngphải là một khối vănviết và vănđọc trong các lãnhvực họcthuật táchrời mà là một hệthống sốngđộng thấmnhập vào lờinói hằngngày, vănhọc, và căntính vănhoá.

Côngtrình của Phan đã đóngkhuôn lại tầng Hán như một thànhphần cấutrúc của tiếngViệt, chứ khôngphải là tàndư vaymượn bênngoài. Nhậnđịnh này phùhợp với lậpluận rộnghơn được đưara ởđây: rằng Hán‑Nôm nênđược xem như một hệthống toàndiện, tươngtự với các phươngngữ Hán phíanam như Quảngđông, thayvì chỉ là một tầng vaymượn bênlề.

C) Giảthuyết Hán‑Tạng

Sagart và một số họcgiả khác đã lậpluận về những liênhệ Hán‑Tạng sâuxa, dựatrên các tươngứng trong từvựng cơbản và hìnhthái của chúng.

Trongkhi việc phânbố tiếngViệt vào ngữhệ NamÁ từlâu đã là quanđiểm chủđạo, một số họcgiả — đặcbiệt là Laurent Sagart — đã đềxuất rằng tiếngViệt có liênhệ sâuxa với ngữhệ Hán‑Tạng. Giảthuyết thaythế này gợimở rằng tiếngViệt khôngchỉlà một ngônngữ NamÁ với lớpphủ Hán nặngnề, mà cóthể cùng chiasẻ nguồngốc với tiếngHáncổ và các ngônngữ Tạng‑Miến.

Sagart và những người ủnghộ chỉra các tươngứng trong từvựng cơbản — những từ cho các khái niệm hằngngày như ‘ăn’, ‘uống’, ‘đái’, ‘ỉa’, ‘đụ’, ‘nước’, ‘bò’, ‘sông’, ‘núi’, hay ‘biển’ — vốn khó giảithích được như những khoảnvaymượn cơbản nhưvậy. Đây là những loại từ thường chống lại việc vaymượn, vìthế sựhiệndiện của chúng trong cả tiếngViệt và các ngônngữ Hán‑Tạng là điều đángchúý. Ngoài ra, các họcgiả cũng nhậndiện những tươngđồng về hìnhthái, như các môhình phụtố và cách tạo từ, vốn làm tiếngViệt gầngũi hơn với Tạng‑Miến so với Môn‑Khmer.

Bảng 2 - Từvựng so sánh: Việt – Háncổ – Tạng‑Miến

Kháiniệm (Gloss) TiếngViệt Háncổ / Trungcổ Tạng‑Miến (vídụ)
eat ăn Háncổ *ʔān / ʔəm (唵 àn, 含 hán “ăn, ngậm”) Tạng‑Miến *am,*um (Jingpho *ʔum*, Lushai *um*)
drink uống Háncổ *ʔuŋʔ / Trungcổ *ʔwong (飲 yǐn “uống”) Tạng‑Miến *ʔuŋ,*ung (Bodo‑Garo *ung, Burmese *aung*)
urinate đái Háncổ *taiʔ (溲 sōu “tiểutiện”) Tạng‑Miến *tai,*dai (Tibetan *dai*, Loloish *tai*)
defecate ỉa Háncổ *ʔjaʔ (屎 shǐ “phân, bài tiết”) Tạng‑Miến *ya,*ʔja (Tibetan *ʔja*, Jingpho *ʔya)
copulate đụ Háncổ *tuʔ / duʔ (交 jiāo “giao hợp, giao cấu”) Tạng‑Miến *du,*tu (Tibetan *du*, Burmese *tu*)
negation (vulgar) đéo Phủđịnh thôtục — (chuyểnnghĩa từ đụ, khôngcó đốiứng trựctiếp) Sosánh: Hán 屌 diǎo (HV điệu, 'fuck') — (tươngtự: từ tìnhdục → phủđịnh thôtục trong một số ngônngữ Tạng‑Miến)
water nước Háncổ *tak / dak* (淂 dé “dạng nước”) Tạng‑Miến *nam, *dak  (Lolo‑Burmese *nam, Karen *nam)
cow Háncổ *bɯʔ / Trungcổ *bi (牝 bì “bò cái, súcvật cái”) Tạng‑Miến *ba, *bo (Tibetan *ba, Groma *bo)
river sông Háncổ *səŋ / Trungcổ *suwng (江 jiāng “sông”) Tạng‑Miến *səŋ, *sung (Burmese *sung, Loloish *səŋ)
mountain núi Háncổ *nəʔ / Trungcổ *nui (山 shān “núi”) Tạng‑Miến *na,*nui (Tibetan *ri‑na, Jingpho *nu)
sea biển Háncổ *hăi / Trungcổ *həi (海 hǎi “biển”) Tạng‑Miến *pan, *pən (Burmese *pań‑lay, Karen *pə‑lai)

Nhậnđịnh chính

  • Các từ cơbản về thânthể và môi trường (ăn, uống, đái, ỉa, đụ, nước, bò, sông, núi, biển) thường chống lại vaymượn, nhưng lại có tươngứng hệthống giữa Việt, Háncổ, và Tạng‑Miến.

  • Đụ cho thấy sự gắnkết trựctiếp với gốc Hán‑Tạng; đéo là một chuyểnnghĩa nội bộ trong tiếngViệt, nhưng phảnánh quátrình phổbiến: từ tìnhdục → phủđịnh thôtục.

  • Những đốiứng này củngcố giảthuyết rằng tiếngViệt cóthể cùngchung tầngnguồn với Hán‑Tạng, chứ khôngchỉ là NamÁ với lớpphủ Hán.

Các dạng phục và táitạo mà tácgiả liệtkê trong cột “Háncổ / Trungcổ” khôngphải do tácgiả tự nghĩra; chúng đến từ những nguồngốc sosánh chuẩn trong ngônngữhọc lịchsử Hán‑Tạng. Cụthể:

  • Các dạng Háncổ (Háncổ) được táitạo dựatrên côngtrình của những họcgiả như William Baxter & Laurent Sagart (Old Chinese Reconstruction, 2014), Axel Schuessler (ABC Etymological Dictionary of Old Chinese, 2007), và các táitạo sớmhơn của Karlgren.

  • Các dạng Trungcổ (Hán Trungcổ) được rútra từ truyềnthống Qieyun (Thiếtvận) và các táitạo của Edwin Pulleyblank, William Baxter, cùng những họcgiả khác.

  • Các đốiứng Tạng‑Miến đến từ cơsởdữliệu STEDT (Sino‑Tibetan Etymological Dictionary and Thesaurus), cũng như từ côngtrình so sánh của James Matisoff, Peiros & Starostin, và Edmondson về các ngônngữ Tạng‑Miến ở Việtnam.

Vìthế, khi ngườiđọc nhậnthấy các mụctừ như:

  • ăn ~ Háncổ *ʔān / *ʔəm

  • uống ~ Háncổ *ʔuŋʔ

  • nước ~ Háncổ *tak / *dak

thì đó là những dạng táitạo họcthuật đã được chuẩnhoá từ Baxter–Sagart và Schuessler, được đốiứng với các từ đồngnguyên Tạng‑Miến trong STEDT.

Chứngcứ ngữâm đóng vaitrò quantrọng trong việt truynguyên và bồiđắp ýthức mới về nguồngốc tiếngViệt. Sự pháttriển thanhđiệu trong tiếngViệt, vốn được Haudricourt giảithích như một sựđổimới thứcấp trong NamÁ, cũng cóthể sosánh với những quátrình tươngtự trong các ngônngữ Tạng‑Miến. Điều này gợimở khảnăng rằng tiếngViệt và các ngônngữ Hán‑Tạng khôngchỉ chiasẻ hiệntượng tiếpxúc mà còn cùngchung những cơchế lịchsử.

Hệquả của giảthuyết này là rất đángkể. Nếu tiếngViệt thựcsự có quanhệ ditruyền với Hán‑Tạng, thì nó nên đượcxem như mộtphần liêntục rộngrãi baogồm tiếngHán, Tạng‑Miến, và dĩnhiên cùng các ngônngữ tầngnền Việt (Yue) khác như tiếng Quảngđông và Phúckiến. Điềunày sẽ tháchthức quanđiểm NamÁ lâuđời và táiđịnhvị tiếngViệt như một ngônngữ cầunối, phảnánh vịtrí địalý và vănhóa của nó tại giaođiểm giữa vùng lụcđịa Hoanam Trungquốc và khuvực ĐôngnamÁ.

Tuyvậy, khôngphải họcgiả  nào cũng bị thuyếtphục về lýthuyết trên. Nhiều người lậpluận rằng những tươngđồng mà Sagart nêura cóthể giảithích bằng tiếpxúc mạnhmẽ và vaymượn, hơn là nguồngốc chung. Hiệnnay, phânbố tiếngViệt vào ngữhệ NamÁ vẫnlà tiêuchuẩn trong các tàiliệu thamkhảo. Tuynhiên, giảthuyết Hán‑Tạng vẫn tiếptục thuhút sựchúý, đặcbiệt khi có thêm dữliệu sosánh mới. Nó giữcho khảnăng mộtngày nàođó tiếngViệt cóthể được táiphânbố, khôngphải nhưlà một ngônngữ NamÁ bênlề, màlà mộtphần của họ Hán‑Tạng rộnghơn.

D) Tầngnền Việt (Yue)

Các nghiêncứu về hệ ngữngôn Việt (Yue) gợimở một cơsở phươngnam cótrước “Hán” chínhthức, phùhợp với chứngcứ tầngnền trong tiếngViệt.

Ngàyxưa khi các triều Tần và Hán củngcố chủthể ngàynay ta gọilà “Hán”, vùng Đồngbằng Sông Hồng và hànhlang Lĩnhnam đãlà nơi sinhsống của các cộngđồng Việt (Yue). Ngônngữ của họ, đôikhi được liênkết với các ngữhệ Tai-Daic, Kra‑Dai, NamÁ, NamĐảo, hoặc thậmchí Hmông‑Miên, đã hìnhthành một cơsở ngônngữ phươngnam cótrước “Hán chủthể chínhthức”. Các pháthiện khảocổ và vănbản sớm, kể cả Bài Việtnhân Ca chèothuyền (越人歌 – 528 TCN), xácnhận một truyềnthống ngônngữ riêngbiệt ở phươngnam, táchrời khỏi các phươngngữ Hán phươngbắc. (2)

Đối với tiếngViệt, tầngnền Việt này hiệndiện trong từvựng cơbản và các lĩnhvực vănhóa mà khôngthể giảithích như những khoảnvaymượn Hán muộn. Các từ như cá (‘fish’), ông (‘elder’), và cộ (‘cart’) cho thấy sựtươngứng với các dạng Việtcổ trong tiếng Quảngđông, Phúckiến, và những phươngngữ phíanam khác. Ngay cả tộcdanh Việt (越 Yuè) cũng ghilại disản này: Việtnam nghĩađen là “Việt phươngnam”.

Kháiniệm tầngnền Việt ámchỉ lớp ngônngữ và vănhóa do các cộngđồng Việtcổ ở vùng Hoanam Trungquốc và bắc Việtnam đểlại, vốnđã tồntại lâudài trướckhi bảnsắc Hán” được củngcố dưới thời Tần và Hán. Các nghiêncứu về ngônngữ Việtcổ — đôikhi liênkết với Kra‑Dai, NamÁ, NamĐảo, hoặc Hmông‑Miên, v.v. — gợimở rằng những cộngđồng này đã hìnhthành một cơsở ngônngữ phươngnam cótrước cái thựcthể ta còn gọilà “Hán chínhthức”. Chứngcứ khảocổ và vănbản, kểcả Bài Việtnhân Ca (528 TCN), chothấy tiếng Việtcổ khácbiệt với các phươngngữ Hán phươngbắc và đểlại dấuấn lâu dài trong từvựng của cả tiếngViệt lẫn các phươngngữ Hán phươngnam như Quảngđông và Phúckiến.

Bằngcách đốichiếu chứngcứ tầngnền tiếngViệt với nhữnggì đãbiết về Việtcổ, giảđịnh rằng phươngngữ này từng đượcdùng bởi thầndân nướcSở như ngônngữ ngoạigiao được ghi trong Erya (爾雅), các họcgiả lậpluận rằng tiếngViệt khôngchỉ hấpthụ từvựng Hán từ trên xuống, mà đã pháttriển từ một hệsinhthái ngônngữ dựatrên Việtcổ, sauđó bị chồnglớp bêndưới các tầng Hán và Đường. Cáchnhìn này đóngchốt lại sựviệc tiếngViệt đượcxem nhưlà một ngônngữ xuấtphát từ tiếngViệtcổ nhưng đã tíchhợp ngữngôn Hán, thayvì chỉ là một ngữchi Hán khác bênlề của NamÁ. Nó cũng giảithích vìsao tiếngViệt có nhiều đặcđiểm cấutrúc và từvựng chung với các phươngngữ Hán phươngnam: cả hai đều là thừahưởng của cùng một nền Việt, rồi được rậpkhuôn vào các lànsóng Hánhoá.

III) Phươngphápluận

Nghiêncứu này ápdụng nguyêntắc đaâmtiết (polysyllabicity), nhóm các hìnhthức dựatrên hạtnhân thayvì côlập các đơnâmtiết. Cách tiếpcận này chophép:

A) Nhậndiện các tầngnguồn từnguyên: truytheo sựpháttriển từ lõi đơnâmtiết, sựghépđôi, các từ đồngnghĩa songâm, và các cặpđôi xuấthiện qua sự thích-ứng đaâmtiết.

B) Theodõi sự phânkỳ ngữnghĩa qua các phongcách: chothấy từvựng tiếnhoá độclập với các ràngbuộc thanhđiệu hoặc giảđịnh của lýthuyết hìnhthành thanhđiệu truyềnthống.

C) Đặt tiếngViệt trong một cungbậc Việt‑Hán liêntục: chứngminh rằng các tươngđồng với Quảngđông, Phúckiến, và những phươngngữ phíanam khác phảnánh sự thừahưởng chung từ Việt cũng như ảnh hưởng Hán về sau.

Dữliệu cho phân tích này được rút từ tưliệu so sánh Hán‑Tạng, các từđiển lịchsử, các táitạo ngữâm Háncổ và Hántrung, cùng với các corpora có chúgiải về cáchdùng tiếngViệt trong vănbản bìnhdân. Tấtcả hợp lại tạo thành cơsở chứngcứ cho việc táiđánhgiá cóhệthống về từnguyên tiếngViệt.

Bàibáo này vìthế đặt nềnmóng kháiniệm và phươngpháp choviệc phântích Hán‑Việtngữ, một tầnglớp cốtlõi trong bảnsắc ngônngữ tiếngViệt. Hán‑Việt chỉđịnh lớp từvựng gốc Hán đã được bảnđịahoá sâuđậm, hìnhthành qua nhiều thếkỷ tiếpxúc liêntục với các phươngngữ Hán phươngbắc và phạmtrù Hán‑Tạng rộnghơn. Nhìnqua lăngkính liênngành, Hán‑Việtngữ thểhiện sựtíchhợp cộngdồn của các yếutố Hán vào tiếngViệt, được hunđúc qua sự caitrị của các triềuđại, truyềnthông vănhóa, và sự thích-ứng bìnhdân trongsuốt dòng lịchsử Annam.

Về phạmvi, phạmtrù Hán‑Việt (Sino‑Vietnamese) bao gồm toànbộ từvựng gốc Hán đã được bảnđịahoá trong tiếngViệt. Trong lãnhvực này, Hán‑Việt tạo thành một tậpcon   baogồm trong phạmtrù ngữngôn Hán-Nôm hiệnđại (Sinitic-Vietnamese)    được quyđịnh dựatrên ngữâm Hán Trungcổ. Xuất hiện từ thời Hán và Đường, Hán‑Việt đã cungcấp cáisườn của phongcách hànhchính, vănbản, và khẩungữ. Điều quantrọng là Hán‑Việt khôngphải là một tàndư vaymượn tĩnh tại màlà một hệthống sốngđộng của sự thích-ứng ngữnghĩa và ngữâm, liêntục được táiđịnhdạng dựavào sựtươngtác giữa cáchdùng hànlâm và bìnhdân.

Phần tiếptheo của bàiviết cũng sẽ giớithiệu các vídụ minhhoạ về từvựng Hán‑Việtngữ mà từnguyên của chúng, dùcó nguồngốc Hán hoặc Hán‑Tạng rõràng, thường bị xếpnhầm vào chi Môn‑Khmer. Những trườnghợp này làm nổibật những tháchthức về phươngpháphọc và việc phânloại lịchsử ở lĩnhvực đã địnhhình.

Cuộc thảoluận sẽ mởra một trangsử mới của ngành ngônngữhọc lịchsử tiếngViệt: việc nhậndiện các chứngcứ từnguyên Hán‑Tạng (漢藏 Hàn‑Tạng) nổitrội như những thídụ trong Bảng 2 trìnhbày nhưtrên, sẽ được triểnkhai trong côngtrình Vietnamese Parallels With the Sino-Tibetan Languages của tácgiả. Một trong những mụctiêu chính ở đây là thiếtlập một phươngpháp cócấutrúc để khảosát chứngcứ này, quađó mởlại cuộc tranhluận lâudài về việc tiếngViệt cónên được táiphânloại như một thànhviên của ngữhệ Hán‑Tạng.
Bằngcách đóngkhuôn tiếng HánNôm như một phạmtrù toàndiện, rộng hơn mụctừ Hán‑Việt nhỏhẹphơn, bàiviết này xếpđặt tiếngViệt ở tầngnền Việt (Yue) và đềxuất một mốiliênhệ Hán‑Tạng dựatrên chứngcứ ngữâm và ngữnghĩa. Điềunày tháchthức sự phânloại NamÁ truyềnthống và nhấnmạnh nhucầu đổimới phươngpháp.
Các lĩnhvực vănhóa như 12 Congiáp, nôngnghiệp, và truyềnthống vănbản càng cho thấy ảnh hưởng lâudài của disản Việt‑Thái. Các vídụ từvựng và thànhngữ    mẹo (卯), ngọ (午), (雞), trống (雄), cồ (公), mái (母), và câu khẩungữ “Bấtkể ai nóigànóivịt, mình chỉ nóingang” (不管 講雞講鴨, 我 只 講鵝) — minhhoạ sựgiaohoán haichiều với các từ đồngnguyên sâuxa.
Bằngcách tíchhợp sự phânkỳ lịchsử, ngônngữhọc sosánh, và độ chínhxác mụctừ, bàiviết này đặtđể nềnmóng hoànthành một từđiển chúgiải đaâmtiết và diễngỉải các phụchồi là âmcổ từnguyên của từ. Việclàm này kêugọi việc táiphânloại tiếngViệt và mộtcách hiểu tinhvihơn về các giaitầng từcăn tiếngHán của nó, với mụctiêu là thúcđẩy cả sự minhbạch trong phươngpháphọc và tínhkhảdụng của lãnhvực họcthuật.

IV) Các trườnghợp nghiêncứu 

A) Cáchtiếpcận đaâmtiết đối với từnguyên Hán‑Việt

Đaâmtiết, như nguyêntắc trungtâm, chophép nhậndiện các tầngnguồn từnguyên và sự chuyểnghĩa qua phongcách.

Nghiêncứu này ápdụng cáchtiếpcận songâm, côngnhận đặctính songâm cơbản của tiếngViệt. Thayvì xem biếnđổi ngữâm như chuỗi thaythế côlập, ta phân tích nó như sự chuyểnbiến của cụm âmtiết, tươngtự sự pháttriển của gốc đaâm Latinh trong ngônngữ Ấn‑Âu.

Các từ songâm tiếngViệt được phiênâm ở dạng kếthợp, phảnchiếu pinyin Quanthoại, vídụ:

  • 廢話 fèihuà “nonsense” → bahoa ~ baphải

  • 溫馨 wēnxīng “warm” → ấmcúng

  • 開心 kāixīn ~ 高興 gāoxìng “pleased” → vuilòng

Điều đángchúý là biếnđổi ngữâm giữa các âmtiết thường phânkỳ mạnh so với gốc, nhưng cóhệthống và mang ýnghĩa mới. Ví dụ bahoa: từ 費 fèi → ba phảnánh môhình /f-/ ~ /hw-/, gầngũi với phếbỏ (‘abandon’). Các âmtiết ba--hoa kết hợp thành một đơnvị songâm duynhất: bahoa ‘nonsense’.

Sự tiếnhoá của fèi thành bỏ- rõràng hơn: bỏphế 費除, bỏđi 費棄, đồbỏ 費物, bỏhoang 荒費. Tuyvậy, bỏ khôngchỉ gắn với fèi mà còn xuất hiện trong nhiều tổhợp khác: bãibỏ 排除, bỏphiếu 投票, vứtbỏ 抛棄, bỏqua 放過, bỏphí 白費, rờibỏ 拋離…

Những vídụ này chothấy hìnhthức songâm tiếngViệt thường phânkỳ cả ngữâm lẫn ngữnghĩa so với gốc Hán, phảnánh quátrình thích-ứng: táitrật tự, mởrộng ngữnghĩa, và táihình ngữâm. Các tổhợp như đồbỏ, bỏhoang cólẽ phátsinh như sự thích-ứng bảnđịa để phùhợp với cúpháp tiếngViệt.

IV) Nghiêncứu các trườnghợp

A) Cáchtiếpcận đaâmtiết đối với từnguyên Hán‑Việt

Đaâmtiết, như nguyêntắc trungtâm, chophép nhậndiện các giaitầng từnguyên và sựchuyểnghĩa qua các phongcách.

Nghiêncứu này ápdụng cáchtiếpcận đaâmtiết, chínhxáchơn là trọngtâm songâm, đốivới từnguyên tiếngViệt gốc Hán. Bằngcách côngnhận đặctính songâm cơbản của tiếngViệt, ta táchkhỏi việc xem biếnđổi ngữâm như chuỗi thaythế âmvị côlập. Thayvàođó, ta phântích nó như sựchuyểnbiến năngđộng của toàn cụm âmtiết. Cáchnhìn này songhành với sựtiếnhoá của các từgốc đaâm Latinh, vốn đã sinhra nhiều hìnhthức từvựng đadạng trong các ngônngữ Ấn‑Âu.

Theođó, các từ songâm tiếngViệt được phiênâm ở dạng kếthợp, phảnchiếu quyước pinyin kýâm Quanthoại tiêubiểu, để thểhiện sự nguyêntắc của cấutrúc, vídụ:

  • 廢話 fèihuà “nonsense” → bahoa ~ baphải

  • 溫馨 wēnxīng “warm” → ấmcúng

  • 開心 kāixīn ~ 高興 gāoxìng “pleased” → vuilòng

Điều đángchúý là biếnđổi ngữâm giữa các âmtiết thường phânkỳ mạnh và rõrệt so với từgốc. Những biếnđổi này khôngphải ngẫunhiên; chúng phảnánh các quátrình ngữâm cóhệthống, táihiện cả âm lẫn nghĩa. Bàiviết này khảosát chuyênsâu vào các quátrình đó để giảithích vìsao nhiều từ tiếngViệt gốc Hán trông khácbiệt hẳn sovới nguồngốc.

Nhiềubiếnđổi ngữâm trong một âmtiết của từ songâm cóthể hélộ các môhình rộnghơn, nhưng cũng cóthể khiến ngườiđọc nghĩrằng kếtquả lại mang tính bấtquytắc hoặc ngẫunhiên. Mụctiêu ởđây là chứngminh rằng biếnđổi ngữâm songâm là có hệthống, có cơsở lịchsử, và giữ vịtrí trungtâm trong việc nhậndiện kho từvựng gốc Hán trong tiếngViệt.

Lấy trườnghợp bahoa. Sự chuyểnghĩa ngữâm từ 費 fèi sang ba cóthể giảithích, nhưng sựkếtnối ngữnghĩa thì ít rõràng hơn. Trong tiếngViệt, ba khôngliênquan đến các nghĩa như ‘ba’, ‘cha’, hay ‘rùa’. Thayvào đó, nó phảnánh một môhình biếnđổi /f-/ ~ /hw-/, tươngtự với sự tráođổi quansát được giữa các phươngngữ MânNam và Quanthoại /f-/. Về kháinệm, /fèi/ gầngũi hơn với phế ‘waste’ và bỏ (廢 fèi, ‘abandon’), đều mang ýnghĩa loạibỏ hoặc vôích.

Điều cốtyếu là các âmtiết ba--hoa trong bahoa khônghoạtđộng độclập trong tiếngViệt. Như các hìnhvị ràngbuộc, chúng kếthợp thành một đơnvị songâm duynhất: bahoa ‘nonsense’. Trong trườnghợp này, một cộng một là một, nó tạo thành một nghĩa hợpnhất, khôngphải hai nghĩa riêngbiệt với hai cách phátâm khácnhau. Nguyêntắc này cũng ápdụng cho baphải.

Ngượclại, sự biếnhoá ngữnghĩa của fèi thành bỏ- rõràng hơn. Xem:

  • bỏphế 費除 fèichú “eradicate”
  • bỏđi 費棄 fèiqì “abandon”
  • đồbỏ 費物 fèiwù “the unwanted” (metathesis)
  • bỏhoang 荒費 huāngfèi “deserted” (metathesis)

Ngay cả trong những trườnghợp này, bỏ cũng khôngchỉ gắn với 費 fèi. Biếnđổi ngữâm từ tiếngHán sang tiếngViệt — đặcbiệt trong các từ songâm — rất đadạng và phụthuộc ngữcảnh. Nhiều hìnhthức tiếngViệt phátsinh từ các từ songâm Hán đã tạo ra những từ đồngâm với bỏ. Xem vídụ trong Bảng 3 dướiđây:

Bảng 3 - Trườnghợp biếnâm từkép đadạng
từ tiếngHán sang tiếngViệt với hìnhvị bỏ‑, -bỏ

Việtngữ Từcăn Hánngữ Ýnghĩa tiếngAnh / Ghichú Loại quátrình pháisinh
bãibỏ 排除 páichú abolish mởrộng ngữnghĩa
bỏphiếu 投票 tóupiào cast a ballot mởrộng ngữnghĩa
vứtbỏ 抛棄 pàoqì discard (metathesis) táitrậttự
bỏđi 放棄 fàngqì let go mởrộng ngữnghĩa
bỏqua 放過 fàngguò let go mởrộng ngữnghĩa
bỏmặc 不理 bùlǐ abandon mởrộng ngữnghĩa
bỏlỡ dịpmay 放過機會 fàngguò jīhuì miss an opportunity
(~ bỏqua dịpmay)
sắpxếplại cúpháp
bỏtiền (vô túi) 放錢 (進入口袋里) fàngqián (jìnrù kǒudài lǐ) put money into the pocket sắpxếplại cúpháp
bỏtiền ra mua 花錢來買 huàqián lái măi spend money to buy sắpxếplại cúpháp
bỏphí 白費 báifèi to waste mởrộng ngữnghĩa
bỏrơi 摽落 piāoluò abandon đồnghoá ngữâm
rờibỏ 拋離 pāolí desert táitrậttự

    Những vídụ này chothấy rằng các trườnghợp biếnâm của các từ songâmtiết trong tiếngViệt thường phânkỳ cả ngữâm lẫn ngữnghĩa sovới từgốc Hán. Các biếnđổi đó phảnánh những quátrình thích-ứng: táitrậttự, táiđịnhnghĩa, và táibiếnâm.

    Sựxuấthiện của bỏ trong các tổhợp này, cùngvới những sángtạo từvựng khác, nêubật sựtươngtác giữa sự đồnghoá ngữâm, mởrộng ngữnghĩa, và sự sắpxếplại trậttự cúpháp — đặcbiệt qua cấutrúc đảongược. Các tổhợp như đồbỏbỏhoang trởthành từpháisinh như những thích-ứng bảnđịa để phùhợp với thóiquen cúpháp tiếngViệt.

    B) Tầngnền Việt và các từnguyên vănhóa chung

    Phạmvi từvựng Hán‑Việt đôikhi mởrộng để baogồm các giaitầng khác: những hìnhthức cóthể truynguyên đến Háncổ (Old Chinese), còn gọi là Háncổđại (Archaic Chinese), Háncổxưa (Ancient Chinese), và đôikhi Hántrungsơ (Early Middle Chinese). Nó cũng baogồm lớp “Tiền‑Hán‑Việt”, tức các khoảnvaymượn thời Tiền-Tần‑Hán, cùngvới các biếnthể tiếngViệt, mộtsố cóthể có nguồngốc từ tiền‑Hán.

    Những hìnhthức cổ này thuộc về các giaiđoạn ngônngữ Tiền-Tần‑Hán, đạidiện cho các tiềnthân của Háncổ trong thờikỳ tiền‑Tần, cáchnay hàng thếkỷ. Qua thờigian, các từnguyên Hán‑Tạng và Hán đã luânchuyển haichiều giữa tiếngHán và tiếngViệtcổ, biếnđổi cả hìnhthức lẫn ngữnghĩa như những thídụ trong Bảng 4 sauđây:

    Bảng 4 - Sosánh từ pháisinh từ tiếngHáncổ và từ Hán-Nôm

    Việtngữ Từcăn Hánngữ Ýnghĩa / Ghichú Loại quátrình pháisinh
    bụt, Phật, vãi 佛  (SV Phật) Gốc từ ‘Buddha’ trong Sanskrit; VS bụt > SV Phật. Quảngđông: fat42, Ônchâu: vai42. vaymượn vănhóa, mởrộng ngữnghĩa
    bụa, phụ, vợ 婦  (SV phụ) cf. goábụa 寡婦 guăfù (widow), vợchồng 公母 gōngmǔ (wife and husband). mởrộng ngữnghĩa
    chài, lưới, chàilưới, là 羅 luó (SV la) cf. 羅 luó (SV la) + 羅 luó (VS lưới): lưới cá, lưới chim. đồnghoá ngữâm, mởrộng ngữnghĩa
    cộ, xe, xecộ, cỗ, cỗxe 車 chē (SV xa) cf. xe 車 chē, cộ 檋 jù (SV cục), đồngnguyên Quảngđông 架車 /kache/: xe, cỗ xe, ôtô hiệnđại. (3) thích-ứng vănhóa, mởrộng ngữnghĩa
    ông, trống, cồ 公 gōng (SV công) cf. 雞公 jīgōng ‘gàcồ’ ~ ‘gàtrống’; 主公 zhǔgōng ‘ôngchủ’; 公母 gōngmǔ (trốngmái, vợchồng). mởrộng ngữnghĩa, sắpxếplại cúpháp


    Bàibáo này pháttriển từ côngtrình trướcđó của tácgiả, Introduction to Sinitic‑Vietnamese Studies (2003) (2003), vốn đóng vaitrò hướngdẫn nềntảng cho lĩnhvực đang hìnhthành. Khảosát banđầu ấy dựatrên dữliệu tổnghợp từ các ngành liênquan, tậptrung vào từnguyên. Từđóđếnnay, phạmvi đã được mởrộng để baogồm cả những tầng Hán‑Tạng chưa được khámphá, nay được củngcố bởi những pháthiện mới trong từnguyênhọc tiếngViệt và tiếngHán. Những kếtquả này hélộ các đặcđiểm ngônngữ chung giữa hai truyềnthống và cungcấp một nềntảng vữngchắc cho việc pháttriển nghiêncứu trong lĩnhvực liênngành này.

    Những vídụ này chothấy rằng từ Hán‑Nôm khôngphải chỉlà một tầng vaymượn thụđộng màlà một hệthống cấutrúc. Sự cùng tồntại của các hìnhthức bìnhdân và hànlâm songhành với hiệntượng từđôi đồngnguyên trong tiếng QuảngĐông (cáchđọc khẩungữ và vănviết), gợiý rằng tiếngViệt nên được phântích cùng với các phươngngữ Hán Nam thayvì riêngbiệt nhau.

    Tầngnền Việt (Yue) làm phứctạp thêm việc phânloại. Nếu các ngônngữ Việt thuộc hệ Kra‑Dai hoặc Hán‑Tạng, thì tiếngViệt khôngchỉ thừahưởng chỉcó nét đặctrưng NamÁ màcòn chứa các tầng Hán‑Tạng sâuxa. Điều này mởlại tranhluận vềviệc tiếngViệt cónên tiếptục được phânloại là ngônngữ NamÁ hay cầnđược xemxét như mộtphần của ngữhệ Hán‑Tạng rộnghơn.

    Sự khácbiệt giữa các phânloại ngônngữ này chủyếu bắtnguồn từ cách phântích đồngđại. Chẳnghạn, thuậtngữ ‘Hánngữ’ vốn gắn với nước Tần thếkỷ III TCN, nhưng lại được ápdụng hồiquy cho các hìnhthức tiền‑Hán vốn cótrước nhà Tần hàng nghìnnăm, ngược về đời Thương và Hạ, baoquát hơn 5000 năm pháttriển ngônngữ.

    TiếngViệt hiệnđại bắtđầu hìnhthành từ thếkỷ XII, với phần lớn từvựng Hán‑Việt cóthể truynguyên qua hơn 3000 năm tưliệu sử Hán (Nguyễn Tài Cẩn, 1978). Tuynhiên, trong thời kỳ tiền sử, nghiêncứu về nguồngốc Việt (Yue) đòihỏi sựthamgia của các giảthuyết thaythế, như của De Lacouperie (1887) và thậmchí các họcgiả thuộc trườngphái NamÁ Mon‑Khmer, vốn đưara những khung phânloại tạmthời để giảithích các mốiliênhệ ngônngữ sâuhơn.

    Vào đầu thếkỷ XX, tiếngViệt từng được phânloại như một ngônngữ Hán‑Tạng. Tuynhiên, đã không có nghiêncứu đángkể nào củngcố giảthuyết này.

    Để thựchiện điềunày, nghiêncứu này, dựatrên phântích sosánh rộngrãi, táchbiệt các từ tiếngViệt mới được xácđịnh và đã được chứngthực trong các ngônngữ Hán‑Tạng. Các trườnghợp minhhoạ sauđây trong Bảng 5 chothấy mứcđộ gầngũi của từnguyên (baogồm cả các mụctừ được ghi trong Tựđiển Khanghy) :

    Bảng 5 – Các từ tiếngViệt mới xácđịnh trong ngữhệ Hán‑Tạng

    Việtngữ Từcăn Hánngữ Ýnghĩa Đồngnguyên / Sosánh
    bồng ~ bế bào (SV bão) ‘mang, bế’ N. Ass. Midźu ba, Taying ba, Nyising ; Daic: Xiêm peek, Lào ɓɛk, Shan mɛk; cf. HảiNam /boŋ2/
    biển ~ bể hăi (SV hải ~ VS khơi) ‘biển’ Hán‑Tạng: Bur. pań‑lay, Karenic *pań, Pwo *pə9‑lai28, Sgaw *pä7‑lâ7*; cf. QuảngĐông /hoi2/ cho VS khơi
    (SV ) ‘bò, trâu cái’ OB *ba*, Bodish bā, bo; Rgyarong (ki)-bri; Hán 牝 *byi/*; Daic: Xiêm ŋwă, Lào, Tày Noir ńuo, Shan ńo, Nùng , Mak pho
    ăn ǎn (SV àm) ‘ăn’ VS ngậm; Luśei *um*; Xiêm ʿ@m; cf. Kangxi: ‘ăn bằng tay’
    nước (SV đắc) ‘nước’ Kangxi: ‘hìnhdạng của nước’; Proto‑Việtic *ɗaːk*; QuảngĐông /dak1/; Daic: Xiêm ʾnām, Lào, Shan, Mak nam, Nùng ram, Lí nom


    Kếtquả là, phạmvi nghiêncứu được mởrộng vượtrangoài các từ đồngnguyên Việt-Hán (越漢 Yuè-Hàn, hay ‘Hán‑Việt’) để baogồm các từnguyên phânbố trên phạmtrù Việt và Hán‑Tạng rộnghơn. Phạmvi mởrộng này baogồm các biếnthể cóthể truynguyên ra tiếngHán-Thượngcổ (上古漢語 Shànggǔ Hànyǔ) và thuộc các tầng tiền‑Tần‑Hán khác, với bằngchứng về sự luânchuyển từvựng haichiều giữa Việtcổ (越 Yuè) và Hán (漢 Hàn). Quađó, phântích này trựctiếp tháchthức các lýthuyết NamÁ vốn khẳngđịnh nguồngốc Mon‑Khmer (MK) cho tiếngViệt, đồngthời dựavào các từnguyên Hán‑Tạng hoặc ‘Bod’(4), và cungcấp sựủnghộ đángkể cho giảthuyết Hán‑Tạng. Việc táiđánhgiá này dựatrên những đổimới ngữâm chung, sựtươngứng ngữnghĩa, và các môhình cấutrúc được ghinhận trên toàn ngữhệ Hán‑Tạng, tấtcả đềuđược khuônmẫuhoá trong nguyêntắc đaâmtiết để sosánh liênngữ mộtcách nghiêmngặt.

    Việc địnhnghĩa Hán‑Việt như một phạmtrù đưa chúngta vượt khỏi môhình hẹp ‘từvaymượn’. Nó khôngchỉ là phầndư của các từvaymượn mà là một hệthống cấutrúc tổchức toànbộ lĩnhvực ngữnghĩa về tôngiáo, chínhtrị, quanhệ huyếtthống, và hơnnữa. Sựtươngđồng gầngũi với các phươngngữ Hán phươngnam chothấy rằng tiếngViệt nênđược nghiêncứu songhành với tiếng QuảngĐông và Phúckiến, thayvì táchbiệt.

    Trongkhi sự thừahưởng tầnglớp songhành với các phươngngữ tiếngHán phươngnam này giúp chứngminh một môhình kép, trongđó tầngnền Việt kếthợp với tầngphủ Hán, thì chính tầngnền Việt lại làm phứctạp thêm việc phânloại. Nếu Việt thuộc hệ Kra‑Dai hoặc Hán‑Tạng, thì tiếngViệt tấtyếu lại thừahưởng nhiều giaitầng ngônngữ còn sâuhơn thayvì tầng kép.

    Kếtluận

    Bằngcách táiđịnhkhung Hán‑Nôm (Sinitic-Vietnamese) như một hệthống toàndiện, một khung phântích baogồm toànbộ từvựng gốc Hán đãđược bảnđịahoá trong tiếngViệt. Nó tíchhợp các khoảnvaymượn tiền‑Hán‑Việt, lớp Hán‑Việt đã được hệthốnghoá, và các từđôi đồngnguyên bìnhdân thành một hệthống năngđộng. Bằngviệc địnhnghĩa Hán‑Nôm theo cách này, ta có được một bứctranh rõrànghơn về tiếngViệt như một ngônngữ thừahưởng tầnglớp, kếtnối truyềnthống NamÁ, Việt, và Hán‑Tạng.

    Bàiviết này phêphán việc giảnlược các yếutố Hán chỉ thành “từvaymượn”. TiếngViệt hiệnrõra như một ngônngữ thừahưởng disản kép, trongđó tầngnền Việt và tầngphủ Hán đanxen nhau. Nguyêntắc đaâmtiết làm chothấy các giaitầng của từnguyên, hỗtrợ cho tranhluận vềviệc táiphânloại với những hệquả liênquan đến những nghiêncứu tiếngViệt và Hán‑Tạng.

    Nghiêncứu tươnglai cần mởrộng kho từđôi, tíchhợp các táitạo ngữâm, và lập bảnđồ các lĩnhvực ngữnghĩa trên toànvùng ĐôngÁ và Đôngnam Á. Côngviệc nhưvậy khôngchỉ tinhchỉnh việc phânloại tiếngViệt mà còn đónggóp vào sựhiểubiết tinhvihơn về những mối tiếpxúc ngônngữ trong khuvực.


    Sách Thamkhảo

    • Aitchison, Jean. Language Change: Progress or Decay? Cambridge University Press, 1994.
    • Alves, Mark J. "Categories of Grammatical Sino‑Vietnamese Vocabulary." Mon‑Khmer Studies 37 (2007): 217–229.
    • Alves, Mark J. "What’s So Chinese About Vietnamese?" In Papers from the Ninth Annual Meeting of the Southeast Asian Linguistics Society, 2001.
    • Anttila, Raimo (ed.). Historical and Comparative Linguistics. Amsterdam/Philadelphia: John Benjamins, 1989.
    • Baxter, William H. & Sagart, Laurent. Old Chinese: A New Reconstruction. Oxford University Press, 2014.
    • Bloomfield, Leonard. Language. New York: Henry Holt, 1933.
    • Bynon, Theodora. Historical Linguistics. Cambridge: Cambridge University Press, 1977.
    • Edmondson, Jerold A. "Tibeto‑Burman Languages of Việtnam." In Linguistics of the Tibeto‑Burman Area, 2002.
    • Ferlus, Michel. Linguistic Evidence of the Trans‑Peninsular Trade Route from North Việtnam. Mahidol University / SIL International, 2012.
    • Haudricourt, André G. "Comment reconstruire le chinois archaïque." Word 10 (1954): 351–364.
    • Haudricourt, André G. "The Limits and Connections of Austroasiatic in the Northeast." In Studies in Comparative Austroasiatic Linguistics, ed. Norman Zide. The Hague: Mouton, 1961.
    • Karlgren, Bernhard. Grammata Serica Recensa. Stockholm: Museum of Far Eastern Antiquities, 1957.
    • Kelley, Liam C. "The Biography of the Hồng Bàng Clan as a Medieval Vietnamese Invented Tradition." Journal of Vietnamese Studies 7, no. 2 (2012): 87–122.
    • Lü, Shih‑P’eng. Việtnam During the Period of Chinese Rule. Hong Kong: University of Hong Kong, 1964.
    • Matisoff, James A. Sino‑Tibetan Etymological Dictionary and Thesaurus (STEDT). University of California, Berkeley, ongoing project.
    • Nguyễn, Tài Cẩn. Giáo Trình Ngữ âm Lịch sử TiếngViệtnam. TP HCM: NXB Giáo dục, 2000.
    • Nguyễn, Tài Cẩn. Nguồn gốc và Quá trình Hình thành Cách đọc Âm HánViệt. TP HCM: NXB Khoa học Xã hội, 1979.
    • Peiros, Ilia & Starostin, Sergei. Comparative Vocabulary of Sino‑Tibetan Languages. Moscow: Nauka, 1996.
    • Pulleyblank, Edwin G. Middle Chinese: A Study in Historical Phonology. Vancouver: University of British Columbia Press, 1984.
    • Sagart, Laurent & Baxter, William. Old Chinese Reconstruction Project. 2011.
    • Schuessler, Axel. ABC Etymological Dictionary of Old Chinese. University of Hawai‘i Press, 2007.
    • Sidwell, Paul. "The Austroasiatic Central Riverine Hypothesis." Journal of Language Relationship 4 (2010): 117–134.
    • Sun, Tianxin. Yuenan Han Ziyin de Lishi Cengci Yanjiu 越南漢字音的歷史層次研究. Taiwan Pedagogy College, 2011.
    • Taylor, Keith Weller. The Birth of Việtnam. Berkeley: University of California Press, 1983.
    • Wiens, Herold J. Han Chinese Expansion in South China. USA: Shoe String Press, 1967.

    FOOTNOTES


    (1)Danhtừ riêng / Thuậtngữ kỹthuật / Thuậtngữ chuyênbiệt

    • tiền‑HánViệt → cho “tiền‑Sino‑Vietnamese”
    • Hán‑Tạng → cho “Sino‑Tibetan”
    • Hán‑Việt → cho “Sino‑Vietnamese” (cáchđọc hệthống đãđược quyđịnh)
    • Hán‑Nôm → cho “Sinitic‑Vietnamese” (tầng mởrộng)
    • HánViệt (không gạchnối) → hệthống âm Việthoá của tiếngHán Trungcổ của quanlại ngườiViệt thựchành đọc và nói trongviệc giaotiếp với ngườiHán caitrị nước Việt thời Bắcthuộc.
    • HánNôm (không gạchnối) → khi chỉ lĩnhvực nghiêncứu về hệthống chữNôm dựatrên chữHán xuấthiện từ khoảng thếkỷ thứ 15.
    (Cứ nghe họctrò họcnói tiếngPháp và tiếngAnh ngàynay là cóthể hìnhdung ra hiểu cách biếnđổi âmvị và tôngđiệu biếnâm trong tiếngViệt.)

    (2)

    VIỆTNHÂN CA

    (Đỗ N. Thành dịch)

    Năm nầy bảo với năm xưa
    Thương chàng hoàng tử thương chiều chiều xưa
    Sớm chiều em hận tương tư
    Mà ai hiểu đặng tình yêu sâu đầy.

    濫兮抃草濫予
    Lạm hề biện thảo lạm dư

    昌枑澤予昌州州
    Xương hằng trạch dư xương châu châu

    飠甚州焉乎秦胥胥
    Thực thầm châu yên hồ tần tư tư

    縵予乎昭
    Mạn dư hồ chiêu

    澶秦逾渗惿随河湖
    Thìn tần du sâm, đề tuỳ hà hồ

    (See: Sinitic-Vietnamese : APPENDICES)

    (3)^ Theo Starostin, trong Hán Trungcổ 車 cũngcó cáchđọc /tʂa/, FQ 尺遮 (từđó có Quanthoại chē, tiếngViệt xa), nhưng cáchđọc xuấthiện này muộnhơn (dựavào vần trong Quảngvận 廣韻, khôngsớm hơn thời Đông-Hán) và hẳn bắtnguồn từ một phươngngữ Háncổ (OC). TiếngViệt cũng có một khoản từvaymượn khẩungữ từ cùng nguồn này, đó là "xe" /sɛ/. Nếu phụcdựng thựcsự là */kla/, cóthể nghĩđến một khoảnvaymượn sớmhơn từ Háncổ, dođó có "cộ". Đồngthời, điều thúvị là 檋 jù (HV "cục", dùngđể kýâm từ mà ngườiViệt đọclà "cộ") đồngthời cũng tồntại như một từđồngnguyên. Từ này liênquan đến các biếnthể 檋, 輂, 輁, 梮 jù (HV cục), trongđó các chữ này đều có yếutố ngữâm gốc 車 chē, jū, jù [ M 車 chē, jū, jù < MC cʰia, kɨə̆ < OC *kʰlja, *kla ]. Các từvựng vềsau là sựpháttriển muộnhơn, như thườngthấy trong môhình tạochữ {bộý + thanhtố}.

    (4)^ "Bod" là một ngoạidanh chỉ Tâytạng xuấthiện từ thờiĐường. Mộtsố họcgiả chorằng âmtiết thứhai, 蕃, vốnđược đọc với âmcuối ‑n trong Hán Trungcổ (tức pʉɐn hoặc bʉɐn, trongđó dạng thứnhất thường pháttriển thành Quanthoại hiệnđại fān). Họ chorằng cáchđọc hiệnnay Tǔbō là khámuộn, cóthể bắtnguồn từ lậpluận của nhàHánhọc người Pháp Jean‑Pierre Abel‑Rémusat (1788–1832), rằng âmtiết thứhai nên được phátâm nhưvậy để phùhợp với tiếng Tạng cổ བོད་ (Bod, ‘TâyTạng’) (Pelliot, 1915). Các vầnthơ thời Đường và Nguyên cũng gợiý rằng âmtiết thứhai 蕃 đãđược đọc với âmcuối ‑n trong giaiđoạn đó (Yao, 2014). (Xem 吐蕃 - Wiktionary)


    Thursday, November 20, 2025

    Disản Kép của TiếngViệt

    Tầngnền Việt và Tầngphủ Hán


    by dchph in collaboration with Copilot




    TiếngViệt thườngđược xếpvào ngữhệ NamÁ. Tuynhiên, chính têngọi Việtnam, nghĩalà ‘ngườiViệt phươngNam’, lại gợimở một câuchuyện sâuxahơn. Từlâu trướckhi hai triềuđại Tần và Hán hợpnhất vùngđất mà ngàynay gọi là ‘Trungquốc’, các cộngđồng Việt ở Lĩnhnam và Đồngbằng SôngHồng đã địnhhình sinhthái ngônngữ của khuvực. Bàiviết này chorằng tiếngViệt nênđược hiểunhư một ngônngữ có gốc Việt, được tíchhợp với Hán, chứ khôngphải là một dịbiệt bênlề của nhóm Môn‑Khmer.

    Bàiviết này lầntheo nguồngốc Hán‑Việt đến các cưdân bảnđịa Việt, những người tiền-Hán ở miềnnam Trungquốc và miềnbắc Việtnam. Đónggóp ngônngữ của họ cho các ngữhệ tiền-Việt, ngữchi Thái‑Kadai đã tạonên tầngnền của nó, trênđó các lớp Hán sau này đắp chồnglên. Chính têngọi Việtnam, ‘ngườiViệt phươngNam’, đã baohàm sựdunghợp giữa disản vănhoá‑ngônngữ Việt và Hán.

    I) Nềntảng Việt

    Bằngchứng khảocổ và sửliệu sớm cùng trụlại một bứctranh duynhất: các cộngđồng Việt đã sinhsống ở miềnnam Trungquốc và Đồngbằng SôngHồng hàng thếkỷ trướckhi Tần hợpnhất. Ngônngữ của họ đã đónggóp những môhình âmvị cơbản, từvựng cơbản và thóiquen cúpháp, tạonên nềntảng tiền-Việt, đặtkhung cấutrúc để các lớp Hán sau này được cồnglên.

    Các cưdân tiền-Hán thuộc nhóm Việt đã đóngvaitrò như những ‘kiếntrứcsư ngônngữ’ của tiền-Việt, cungcấp các khối âmvị và ngữnghĩa, rồi tiếpxúc và tiếpthu từvựng Háncổ và Hán Trungcổ qua nhiều đợt. Chính ethnonym ‘Việtnam’ đã mãhoá disản kép này, biểuđạt sự liêntục vănhoá dưới các lớp chínhtrị kếtiếp.

    Phânloại truyềnthống thường xếp tiếngViệt vào nhánh Môn-Khmer của NamÁ. Bàiviết này xemxét lại cách phânloại đó bằngcách chỉra những tươngứng hệthống về âmvị và ngữnghĩa với tiếngHán, và rộnghơnnữa là các ngônngữ trong ngữhệ Hán-Tạng, chorằng nhiều đặcđiểm mà các họcgiả Âu-Mỹ trướckia gộplại thành ‘NamÁ’, thựcsự thựcthể đó phảnánh nhóm ngônngữ Việt (Yue) tiền-Hán ở Hoanam (華南), chứ không thuầnnhất là một disản Môn-Khmer.

    Bảng 1: Dòng dicư và sựdunghợp

    Thờikỳ Sựkiện Tácđộng ngônngữ
    Tiền‑Tần-Hán Việt + tiền-Tạng kếthợp Hìnhthành phứcthể Hán‑Tạng
    111 TCN Hán thôntính NamViệt Từvựng Háncổ đivào ngữhệ Việt
    Thời NhàĐường Ảnhhưởng Hán Trungcổ Chuẩnhoá từvựng Hán-Việt
    939 SCN Độclập khỏi NamHán Phântách tiếng Annam và QuảngĐông
    TK 10–21 Các đợt dicư liêntiếp Hỗnhợp sắctộc, hìnhthành dântộc Kinh

    Các nhóm Môn-Khmer đã dicư vào Đồngbằng SôngHồng khoảng 6000 năm trước, nhưng từvựng của họ giống với tiếngViệt chủyếu qua tiếpxúc vềsau. Tầngsâu của tiếngViệt — môhình thanhđiệu, cấutrúc đaâmtiết, và cốtlõi từnguyên — lại gắnkết chặtchẽ hơn với Việt và HánTạng.

    Sựdunghợp giữa cưdân Taic-Việt (Taic-Yue) bảnđịa với những người dicư tiềnTạng đã tạora một phứcthể dântộc-ngônngữ (tộcngữ) mởrộng, gópphần vào vànhđai Hán-Tạng. Từ những tiếpxúc lâudài này đã xuấthiện nềntảng dâncư thườngđược truyềnthống gắnvới các dònghọ tiền-Hán sớmnhất, những người kếthừa chínhtrị của họ vềsau được họcgiả hồicố liênkết chúng với các nền vănhoá đồngthau có niênđại gần 5000 năm.

    Để rõràng choviệc phântích, tácgiả dùng ‘Taic’ (Thái) như một thuậtngữ baoquát để chỉ cưdân bảnđịa của vùng. Đến từ phứcthể này đã xuấthiện các nhóm Daic-Kadai (Tày), cộngđồng Việt, và những yếutố saunày được xếpvào Môn-Khmer NamÁ. Các đợt dicư tiếptheo đã đưavào thànhphần tiền-Tạng và những nhântố khác; nhànước Hán tựnó đã kếttinh qua sựdunghợp của Taic + Việt (Yue) + HánTạng. Hìnhthức tộcngữ Việt vìthế phảnánh sựtổnghợp hơnlà một dòngdõi tuyếntính.

    Dựatrên bằngchứng khảocổ và từvựng, cộngđồng Việt rõràng có trướckhi các đặctrưng Hán cốtlõi được dunhập. Vănhoá vậtchất, như mườihai congiáp, và những từvựng tươngứng — vídụ /krong/ (‘sông’) ~ 江 jiāng (‘giang’, như Dươngtửgiang, 'Yangzijiang') sovới Hoànghà (黃河) — đã bảotồn ranhgiới giữa Việt và Hán, đồngthời giữlại lớp từvựng tầngnền trong tiếngViệt hiệnđại. (1)

    II) Sựdunghợp với Hán

    Việcthôntính NamViệt (南 越) của nhàHán ở miềnnam Trungquốc không xoábỏ tiếngViệt bảnđịa ở Giaochỉ phíanam. Thayvàođó, nó chồnglên từvựng Háncổ trên nềntảng Việt, tạora một hệsinhthái từng mảng. Các từvựng Háncổ đã dunhập vào trong thờikỳ đầu Bắcthuộc, và vềsau từvựng Hán Trungcổ (Hán-Việt) được chuẩnhoá trong đời NhàĐường, chúng đã cungcấp cáivốn cho các lĩnhvực hànhchính và vănchương.

    NhàHán tựnó là kếttinh từ nướcSở, một nhànước Daic-Việt, và binhsĩ của nó đầy những binhsĩ Sở. Lưu Bang (劉邦 Líu Bāng), vị hoàngđế sánglập, đã nói tiếngSở, vốn là một phươngngữ Taic-Daic. Các nhómngười Việt và Choang ở miềnnam xaxôi đã tiếpthu thứ ngônngữ chung này saukhi bị thôntính.

    Những từnguyên gốcViệt vẫncòn tồntại, được bảotồn trong tầng Hán của từvựng cơbản tiếngViệt. Vídụ gồmcó ‘voi’ < 為 wēi (HV 'vi'), ‘chuột’ < 鼠 shǔ (HV 'thử'), và ‘’ < 牝 bìn (HV 'tẫn'). Tươngtự, tầng HánViệt (HV) hìnhthành chủyếu qua tiếpxúc thuộcđịa từ thời nhàHán và ảnhhưởng thờikỳ nhàĐường, sinhra những từ như ‘’ < 雞 jī (HV ''), ‘buồng’ < 房 fáng (HV 'phòng'), ‘chàilưới’ < 羅 luó (HN 'chài'+'lưới' ), và ‘cỗxe’ < 車 chē (HN 'cỗ'+'xe').

    Về mặt xãhội ngônngữ, ngữtầng Việt đã địnhhình những thóiquen cấutrúc, vídụ như trậntự âmtiết và pháttriển đaâmtiết, vốn vẫn còn tồn tại ngaycả khi từvựng Hán Trungcổ được bảnđịahoá. Điều này giảithích vìsao nhiều từ gốcHán trong tiếngViệt vừa biếnđổi về ngữâm vừa biếnđổi về ngữnghĩa: chúng là kếtquả của sự thíchnhập tầnglớp, khôngphải sựsailệch tuỳtiện.

    Tổngthể, những sựkiện này khiến chúngta cần xemxét lại tiếngViệt với tưcách một ngônngữ có disản hai tầng: một tầngnền gốcViệt đanxen với các lớptầng Hán tiếptheo. Việc côngnhận bảnchất kép này giúp phântích vượt rangoài danhsách từvựng vaymượn, tiếntới một cáchnhìn tíchhợp về tiếpxúc, hộinhập, và quátrình tổnghợp cấutrúc lâudài trong sự hìnhthành tiếngViệt hiệnđại.

    Bảng 2 – Luồng dicư tiền-Tạng và sự tiếpxúc với nướcThục


    Các nhóm tiền‑Tạng đượccholà có nguồngốc từ vùng caonguyên tâynam TrungQuốc, đặcbiệt ở những khuvực giápvới Vânnam và Tứxuyên hiệnđại.

    NướcThục (蜀國), trungtâm ở Tứxuyên, nổitiếng với vănhoá đồngthau sớm và hồsơ ngônngữ đặcthù. Các pháthiện khảocổ từ những dichỉ như Tamtinhđôi và KimSa chothấy những tổhợp vậtchất khôngliênquan đến vănhoá Trungnguyên, gợiý tiếpxúc với các cộngđồng vùngcao.

    Môhình dicư được suyra từ kiểumộ và loạihình gốm chothấy sựdịchchuyển về phíabắc dọctheo các nhánhsông Dươngtử, phùhợp với nhậnđịnh chung. Các dichỉ khảocổ biệtlập ở Tứxuyên và vùng lâncận chothấy bằngchứng về sự giánđoạn vănhoá, những biếnđổi độtngột trong vậtthể dichỉ gợiý sự thaythế hoặc tuyệtchủng dâncư.

    Những tổhợp này thường baogồm hiệnvật phi‑Hán, như mặtnạ cáchđiệu, đồđồng nghilễ, và các dạng gốm độcđáo. Sự tuyệtchủng ngônngữ được suyra từ việc khôngcó hậuduệ trựctiếp trong các ngônngữ Hán‑Tạng hiệnđại, dù ảnhhưởng tầngnền cóthể vẫncòn trong ngữâm và cúpháp.

    III) Trungquốc trướckhi có ngườiHán

    Trong một thờikỳ xaxưa hơn, các nhóm tiền‑Tạng có nguồngốc từ vùng caonguyên tâynam Trungquốc đã dicư về phíabắc và tiếpxúc với những cộngđồng bảnđịa giápgiới nướcThục (蜀國) thuộc Tứxuyên ngàynay. Những chuyểndịch này đitheo các nhánhsông Dươngtử, và các tổhợp khảocổ biệtlập dọctheo những hànhlang này chothấy một số cộngđồng vềsau đã biếnmất mà không đểlại hậuduệ ngônngữ trựctiếp.

    Truyềnthuyết và sửliệu sớm ghilại sựtrỗidậy của nhàÂn (殷朝, 1600 TCN–1046 TCN) và vềsau là các thểchế Thương. Từ khoảng 1225 TCN đến 1220 TCN, ngườiÂn đượccholà đã mởrộng ảnhhưởng xuống vùng Annam cổ. Trong hơn 2000 năm tiếptheo, các nhóm tiền‑Hán nhậpcư đã hoànhập với cộngđồng Taic‑Việt, tạora một matrận tộcngữ phứchợp có trướckhi các nhànước Tiền-Tần và nhàHán củngcố.

    Trong vànhđai Việt, có những dònghọ chiasẻ tầngnền Taic với các thuỷtổ của nướcSở; cộngđồng Choang cổ đã gópphần vào sự hìnhthành cả nướcViệt (越國) và nướcĐôngViệt (東越). Khi các nhànước phươngbắc mởrộng, cộngđồng Việt bị dờichuyển và đẩy về phíanam. Sự dunghợp Tần‑Việt và những đợt phânbố dâncư vềsau đã đi theo nhiều hànhlang — từ vùng Yunnan ngàynay qua Chiếtgiang và Phúckiến, rồi xuống Hồbắc, Giangtây, và Giangtô — cuốicùng đến những vùng vềsau liênquan đến giảthuyết NamÁ, Namđảo, NamÁ‑Thái.

    Trong toànbộ vànhđai này, các ngônngữ cho thấy những tươngđồng cóthể chứngminh; sự khácbiệt bềngoài thường chỉ phảnánh cách phânloại khácnhau mà họcgiả vềsau đã đặtra. Trong phânloại hiệnđại, các thứ tiếng thườngđược gọilà ‘phươngngữ Hán’ được xếpvào ngữhệ Hán‑Tạng khôngphải vì Hán cótrước Việt, mà vì chúng nằm trong phạmvi họ Hán‑Tạng. Tươngtự, têngọi Việt (越 Yuè) không chỉđịnh một cộngđồng tộcngữ đồngnhất. ĐôngViệt (東越) ở Chiếtgiang và NamViệt (南越) ở Quảngđông là những nước vùngmiền khácbiệt, đều có nguồngốc từ tầngnền Taic chung.

    Nguồngốc chung này giảithích sự tồntại những đặctrưng tầngnền và nhiều từđồngnguyên được bảotồn trong sửliệu cổ, trongđó có những từđôi còn lưulại trong Tựđiển Khanghy. Vídụ: 淂 dé (HánViệt ‘đắc’, HN ‘nước’) xuấthiện bêncạnh 水 shuǐ (HánViệt ‘thuỷ’, HN ‘nước’) với trườngnghĩa chồnglấn. Những cặptừ nhưvậy bảotồn dấuvết của ngônngữ bảnđịa cổ từ các nước vềsau bị sápnhập vào hệthống đếquốc — Thục (蜀國), Sở (楚國), Việt (越國), và NamViệt (南越王國) — và phảnánh các liênminh tộcngữ phứchợp từng tồntại ởđó, gồm LạcViệt (雒越), TâyÂu (西甌), ÂuViệt (歐越), ĐôngÂu (東甌), và MânViệt (閩越).

    Bảng 3 – ÂuViệt (甌越)

    ÂuViệt, hay OuYue (甌越), là một liênminh tộcngữ BáchViệt cổ, sinhsống ở vùng núi phía bắc Việtnam, tây Quảngđông, và bắc Quảngtây (Trungquốc), ítnhất là từ thếkỷ thứba TCN. Tiếngnói của họ đượccholà thuộc ngữhệ Tai‑Kadai. Ở miềnđông Trungquốc, ÂuViệt đã thiếtlập nước ĐôngÂu (東甌). TâyÂu (西甌, ‘Tây’ nghĩa là ‘phía‑tây’) là những bộtộc BáchViệt khác, có tócngắn và xămtay, nhuộmrăng đen, và là tổtiên của các cộngđồng thiểusố nói tiếng "Tai" ở vùngnúi Việtnam như Nùng và Tày, cũng như ngườiChoang ở Quảngtây.

    ÂuViệt buônbán với LạcViệt, cưdân của nước Vănlang, nằm ở đồngbằng phía nam ÂuViệt, tức vùng châuthổ sông Hồng ngàynay, cho đến năm 258 hoặc 257 TCN, khi Thục Phán, thủlĩnh của một liênminh bộtộc ÂuViệt, đã xâmchiếm Vănlang và đánhbại vị Hùngvương cuốicùng. Ông đặt tênnước mới là “ÂuLạc”, xưng mình là “Andươngvương” (安陽王, nghĩa là ‘Vua Andương’). Nguồngốc của Thục Phán khôngrõ. Theo sửliệu Việtnam truyềnthống, ông là hoàngtử hoặc vua của nước Thục (蜀國) ở Tứxuyên.

    Tuy nhiên, nước Thục đã bị Tần thôntính vào năm 316 TCN, khiến giảthuyết Thục Phán là hoàngtộc nước Thục 100 năm sau trởnên khó có khảnăng. Cóthể câu chuyện vẫn có giátrị nàođó do bằngchứng khảocổ về liênhệ vănhoá giữa Vânnam và tiền‑Việt, nhưng cólẽ vì khoảngcách thờigian giữa lúc câuchuyện phátsinh và lúc nó được ghilại, địađiểm đã bị thayđổi thành Thục hoặc đơnthuần là nhầmlẫn do kiếnthức địalý sai.

    Theo một truyện truyềnmiệng của ngườiTày được dịch, phầnđất phíatây của ÂuViệt đã trởthành nước Namcương, có kinhđô ở vùng Caobằng (Việtnam). Thục Phán xuấtthân chính tạiđó. Tínhxácthực của truyện này bị một số sửgia nghingờ. Nó được côngbố năm 1963 dưới dạng bảndịch, trongkhi khôngcó bản gốc bằng chữTày còn tồntại. Tên truyện chứa nhiều từ Việt với khácbiệt nhỏ về thanhđiệu và chínhtả hơn là từ Tai. Khôngrõ bảndịch này dựa trên văn bản nào.

    Theo sửgia Trungquốc:

    NhàTần đã thôntính nước Sở, thốngnhất Trungquốc. Tần bãibỏ địavị quýtộc của hậuduệ nước Việt. Vài năm sau, Tần Thỉhoàng đã phái 500.000 quân xâmchiếm TâyÂu. Sau ba năm, quân Tần giết thủlĩnh TâyÂu là Dịch Dụtống (譯籲宋). Tuyvậy, TâyÂu vẫn tiếnhành chiếntranh dukích chống Tần và giết tướng Tần là Đồ Tuy (屠睢) để trảthù.

    Trướckhi nhàHán xâmchiếm, ĐôngÂu và TâyÂu giànhlại độclập. ĐôngÂu bị nước MânViệt tấncông, và Hán Vũđế đã chophép họ dờichuyển đến vùng giữa Sông Dươngtử và Sông Hoài. TâyÂu nộpcống cho NamViệt chođếnkhi bị Hán thôntính. Hậuduệ của các vua này vềsau mất địavị quýtộc. Các họ Âu (區), Âu (歐), và Âudương (歐陽) vẫn còn tồntại.

    Theo sửgia Việtnam:

    Năm 257 TCN, Andươngvương (安陽王) đã hợpnhất bộtộc LạcViệt (NamÁ) của các Hùngvương (雄王) với bộtộc ÂuViệt (Tai‑Kadai) thành một bộtộc duynhất — nước ÂuLạc.

    Năm 208 TCN, Triệu Đà đã chiếm ÂuLạc và sápnhập nó vào nước NamViệt, vốn do nhàHán caiquản.


    Trướckhi thếkỷ thứnhất TCN, thầndân nhàHán đã hìnhthành do sự dunghợp nhânchủng giữa các nhóm tiền‑Tạng và cộngđồng bảnđịa BáchViệt, tạora thànhphần cốtlõi của nước Tần. Dâncư này được hìnhthành từ sáu quốcgia cổ khác, trongđó có đónggóp đángkể từ cưdân nước Sở, gồm cả người Daic (Tày) và Việt (Yue).

    Saukhi nước NamViệt bị sápnhập vào đếquốc Hán năm 111 TCN, các sắctộc ngườiViệt lại càng hoànhập với thầndân Hán, mởrộng phạmvị vượt rangoài vùng Lĩnhnam ở phíanam. Quátrình dunghợp này lặplại liêntục xuyênsuốt khônggian và thờigian.


    Thànhphần tộcngữ của nhàHán cólẽ vẫn giữ sự dunghợp tỷlệ tươngtự như đặctrưng của nước Sở vào lúc đếquốc Hán hìnhthành, dù tổng dânsố đã giảm sau nhiều thậpkỷ chiếnchinh. Điều quantrọng là các nhântố Việt‑Daic vẫncòn nổibật trong thầndân nhàHán sau khi Sở sụpđổ, vì bảnthân Sở vốn có nguồngốc là một vươngquốc Daic (ngườiTày). Sựliêntục này có ýnghĩa: hoàngđế sánglập Lưu Bang (劉邦) và nhiều tướnglĩnh cùng binhsĩ dướitrướng của ông vốnlà những chiếnbinh nước Sở, họ đã cùng khángcự quân Tần cho đếnkhi Hán lậpnước. Xuấtxứ đó có hàmý quantrọng về mặt sửtộc.

    Tên gọi “Hán” và các danhxưng liênquan bắtnguồn từ Hántrung (漢中), một vùng hẻolánh thuộc Thiểmtây ngàynay. Lưu Bang đãđược Hạng Võ (項羽), vị côngtước cuốicùng thaymặt cho vị vua cuốicùng của nước Sở, bổnhiệm làm Hántrungvương ; vềsau hai vị tướngquân này đã giaochiến trong cuộc Hán-Sở Tranhhùng (楚漢戰爭, 206–202 TCN). Sau khi Lưu Band đánhthắng Hạng Võ phe chiếnthắng đã táchkhỏi bảndanh nước Sở và tựnhận là ‘ngườiHán’, tức những người đitheo thứsử Hántrung. (2)

    Nhưvậy, các thựcthể ‘Hán’ xuấthiện đồngthời với những têngọi khác của ‘Tần’, như ‘Tàu’, ‘Tàuô’ — vốn là âmcổ của ‘Qin’ và vềsau chora các dạng ‘Chine’, ‘Sinitic’, ‘Sino’, ‘China’. Những têngọi thaythế như ‘Cathay’, ‘Đường’, hay ‘Thanh’ đãđược dùng trong nhiều thờikỳ khácnhau, nhưng tấtcả những têngọi này chekhuất thựctế rằng thầndân nước Hán vốnlà một kếtcấu chắpvá, được thốngnhất bằng quátrình hìnhthành nhànước và sự dunghợp vùngmiền lâudài, chứ khôngphải bởi một nguồngốc tộcngữ duynhất. 


     


    Hình 1: Bảnđồ lãnhthổ các triềudại ở Trungquốc
    Source: https://en.wikipedia.org/wiki/File:Territories_of_Dynasties_in_China.gif

    Hơn 4000 sau, thầndân của nước Tần (秦國, 206 TCN) mới thốngnhất đã baogồm cả cộngđồng Taic‑Daic của nước Sở (楚國) cùng với hậuduệ Việt, vềsau hìnhthành nước Việt phươngnam (越國) và nước chưhầu Ngô (吳國). Sửliệu Trungquốc về thờikỳ Xuânthu (770–476 TCN) và Chiếnquốc (475–221 TCN) ghilại rằng các nhànước phươngnam này đã tồntại trong quanhệ triềucống lâuđời trước triềuđại TâyChu.

    Khi phe Hán thaythế Tần và củngcố quyềnlực trênđất Trunghoa, họ đã ápđặt một ngônngữ quantriều chínhthức. (3)Ngônngữ ấy, vốnđược cholà do Lưu Bang (劉邦) vị hoàngđế sánglập nhàHán sửdụng, có khảnăng là một phươngngữ Sở, tức một tiếng Taic‑Daic phảnánh nguồngốc của vị vua nầy trong lãnhthổ nước Sở. Sau khi nước NamViệt bị sápnhập, các nhóm Việt phươngnam cùng cộngđồng tổtiên Choang đã tiếpthu thứ ngônngữ chung này dưới sựcaitrị của triềuđình. Trong tổhợp NamViệt, chữ Nam 南 nghĩa là ‘phíanam’ và chữ Yue 越 nghĩa là ‘Việt’, một sự tươngứng ngữâm được chứngthực trong cả tiếng LạcViệt cổ và tiếng ĐôngViệt (Quảngđông) xưa.

    Nhiều từcăn chung của Việt cóthể truyngược về thờitiềnsử, khi các ngônngữ tiền‑Tạng và Việt nguyênthuỷ tiếpxúc với tiếng Việt‑Mường vềsau, vốncó gốctừ tầngnền Taic. Tiền‑Việt từng được nói rộngkhắp vùng Hoanam Trungquốc, phạmvi của nó mởrộng đến các vùng ven Sông Dươngtử, vốnlà quêhương tựnhiên của các cộngđồng Taic cổ. Những dâncư bảnđịa này đã hợpnhất thành BáchViệt (百越), với một danhxưng baoquát dành ho các nhóm phươngnam đadạng gọilà ‘Bod’. (4)

    IV) Sựdunghợp Ảnhhưởng TiếngHán

    Trong trườnghợp Việtnam, những đợt dicư liêntiếp theo hướng bắcnam trên cả quymô địalý và lịch‑sử đã đẩy các cộngđồng bảnđịa từ vùng đồngbằng màu‑mỡ xuống những khu vực núinon kém phìnhiêu. Sau thờikỳ Tần‑Hán, những người dicư từ nam Trungquốc mang theo ngônngữ riêng của họ, và trong thiênniênkỷ tiếptheo, các ngônngữ này đã hoànhập với những tiếng Tai‑Việt địa‑phương, gồm cả tiếng Dai (Tày), Thái, Nùng, và các phươngngữ Việt‑Mường khác. 

    Trước năm 939, khi cả Annam và Quảngđông còn thuộc Đếquốc NamHán (南漢帝國), cưdân của họ dườngnhư vẫn hiểubiết lẫnnhau, ítnhất là thôngqua một thứ tiếng Quanthoại vùngmiền. Trong thờikỳ này, các họcgiả Annam đã thamgia vào bộmáy hànhchính và sángtác vănchương tại triều Đường. Tưliệu vănchương và sựxuấthiện của kho từvựng Hán‑Việt (漢越) hoànchỉnh, được truyền từ tiếng Trungcổ trong thếkỷ cuốicùng của NhàĐường, đã chứngthực cho sự dunghợp này.

    Nguồn sửliệu cũng chothấy rằng những đợt di‑cư quy‑mô lớn từ nam Trungquốc vào ‘Annam’ đã xảyra khôngchỉ trong thiênniên kỷ thuộc thờikỳ đôhộ của Trungquốc (111 TCN–939 SCN), mà còn tiếptục trong các thếkỷ sau, thậmchí vượtqua năm 1949 và sang tận thếkỷ 21, khi những người laođộng Trungquốc lập nên các khuphố Tàu Chinatown trênkhắp Việtnam.

    Sự chuyểntiếp ngônngữ dễdàng này là một hiệntượng đặcbiệt nếu so với các cộngđồng nói tiếng Mon‑Khmer, ngoạitrừ mộtphần ảnhhưởng muộn từ tiếpxúc với các nhóm Mường lánggiềng. Những cộngđồng này, vốn đã tách hỏi các nhóm Việt‑Mường cổ chốnglại sựđôhộ của Hán, đã rútlên vùng núi và cùng tồntại với người Môn‑Khmer. Sựtiếpxúc của họ đã làm táchbiệt những điểmchung đặcthù của Việt vùng đồngbằng khỏi từvựng Môn‑Khmer, mà sự giốngnhau chỉ xuấthiện về sau do tiếpxúc muộn. Bằngchứng khảocổ và sửliệu chothấy rằng các nhóm Mon‑Khmer đã dicư vào châuthổ Sông Hồng khoảng 6000 năm trước (Nguyễn Ngọc San 1993, tr. 43). 

    Theo thờigian, tiếng Annam bảnđịa chỉ giữlại mộtphần hạnchế các nhântố Việt. Quátrình lâudài hìnhthành quốcgia Việtnam bắtđầu từ thànhphần hỗnhợp của dâncư sơkhai, vốn xuấtthân từ các cộngđồng Việt, LạcViệt, TâyLạc, và ÂuLạc của nước NamViệt. Vìvậy, khó có khảnăng rằng tổtiên của ngườiViệt vẫn còn là những bộtộc Việt thuầnchủng, ngay cả trướckhi trảiqua 1004 năm đôhộ của Tàu kếtthúc vào năm 939 SCN. (5)

    Những đặctrưng ngônngữ do các cộngđồng dicư mangđến — các môhình thanhđiệu và đặctrưng ngữâm tiêubiểu của tiếng Quảngđông, Hảinam, Triềuchâu, Amoy, và Phúckiến — đã đivào tiếng Annam như những thànhphần cấutrúc tíchhợp chứ khôngphải chỉlà những lớpphủ bềngoài. Một quátrình thayđổi do tiếpxúc tươngtự quansát thấy trong sựpháttriển của tiếng Quảngđông.

    Từ gócđộ ngônngữ, sự traođổi từvựng giữa cộngđồng bảnđịa và cộngđồng dicư đã khiến các nhântố Việt bảnđịa trởthành bổsung cho phạmvi Hán đang mởrộng, thayvì thaythế nềntảng của nó. Quátrình này cóthể sosánh rộngrãi với sựtiếpnhận từvựng Hán vào quátrình hìnhthành kháiniệm của tiếngNhật.

    Sau khi giành độclập, cưdân Việtnam — lúc đó được gọi là “ngườiAnnam” — đã thiếtlập một nhànước có chủquyền tươngứng với Việtnam hiệntại (越南 Yuènán), nghĩalà ‘Việt phươngnam’. Cách hiểu này tráingược với quanđiểm nhầmlẫn cho rằng 越 cónghĩa là ‘tiến xuống phíanam’, một sự nhầmlẫn bắtnguồn từ liênhệ ngữnghĩa với ‘tiến’ hay ‘vượt’. Các phiênâm Háncổ của Việt (越) bao gồm những chữ biếnthể như 戉, 粵, và 鉞, đều chỉ các loại dụngcụ hình rìu, và tấtcả đều liênquan đến ‘Việt’. Sự phânbiệt này táchrời căntính tộcdanh sơkhai khỏi sự mởrộng lãnhthổ vềsau thếkỷ thứ 10.

    Qua nhiều thiênniênkỷ, và thôngqua những đợt dicư bắcnam lâudài từ một nhànước gọilà Vănlang — có khảnăng là phiênâm của âmcổ 賓郎 Bīnláng [← ‘blau’ = ‘trầu’, sosánh 檳城 Bīnchéng (‘Bếnthành’ ~ ‘Penang’) hay ‘betel’], nằm ở bắc Việtnam — ngườiViệt vềsau đã hiệntồn như một cộngđồng hỗnhợp. Nguồngốc hỗnhợp này baogồm cả nhântố Chăm và Môn‑Khmer dọctheo hànhlang dicư. Bằngchứng khảocổ và nhânchủnghọc nhấtquán ủnghộ cáchnhìn này, chorằng quátrình hìnhthành tộcngữ Việtnam hiệntại là kếtquả của sự dunghợp tầnglớp chứ khôngphải sự truyềnthừa tuyếntính từ một nhóm duynhất nào đó ở bắc hay nam. (6)


    Cũngnhư không có cộngđồng nào cóthể tựnhận là ‘thuầnHán’, thì cũng khôngcó dòngdõi ‘thuầnViệt’ hoàntoàn. Lịchsử Việtnam được đánhdấu bởi sựdunghợp giữa những ngườiHán dicư và các cộngđồng Việt phươngnam, nhiều nhóm xuấtphát từ vùng nam Trungquốc ngàynay. Chính tên gọi ‘Việtnam’ — nghĩa là ‘ngườiViệt phươngnam’ — đã thểhiện disản chung này.
    Khácvới các cộngđồng ngườiHoa ở những nơi khác trongvùng ĐôngnamÁ, ngườiHoa tại Việtnam hoànhập nhanhchóng; nhiềunhất chỉ trongvòng hai thếhệ, hậuduệ sinhra và lớnlên trên đất Việtnam thường tựnhận mình là Kinh trong sốliệu điềutra dânsố. Qua nhiều đợt địnhcư tiếptục theo hướngnam và sựhoànhập với các nhóm bảnđịa, những cộngđồng hỗnhợp này đã kếttụ thành đasố Kinh, vốn địnhhình nên Việtnam hiệntại.


    Nhưđãnói, dâncư Annam sơkhai đã hìnhthành qua nhiều thếkỷ hỗnhợp giữa các nhóm Việt bảnđịa và những ngườiHán caitrị. Từ sự hỗnhợp phứctạp này đã xuấthiện cộngđồng Kinh (京族 Jīngzú, 'tộcKinh'), hậuduệ của một quátrình hìnhthành tộcngữ tầnglớp. Sự tươngtác lâudài của các cộngđồng này trởthành một chủđề lặplại trong diễnđàn dântộc, đặcbiệt trong bốicảnh nhiều ngườiHán dicư đã trốnchạy biếnđộng trong các đổithay triềuđại ở Trungquốc, từ sựsụpđổ của nhàĐường vào thếkỷ 10 chođến sựtrỗidậy của chínhquyền cộngsản sau năm 1949, và địnhcư vĩnhviễn tại các vùng lãnhthổ phíanam.

    Môhình nhânkhẩu này vẫn tiếptục cho đến hiệntại. Các báocáo chothấy rằng từ năm 1990, có trên một triệu người Trungquốc lụcđịa đã địnhcư lâudài tại Việtnam, theo sốliệu tổnghợp từ các hộinghị thườngniên của cộngđồng Hoakiều tại những thànhphố lớn của Việtnam.

    Sựgắnkết lâudài về mặt lịchsử này giảithích cho những từcăn chung được dẫnxuất từ một tầngnền cổ, gần đếnmức mộtsố người đã nhầmlẫn chorằng từcăn Việt có nguồngốc từ tiếngQuảngđông. Thựctế, cả hai ngônngữ đều chiasẻ mộtphần disản lớn từ tiếngHán Trungcổ thời Đường, được củngcố bởi những đợt dicư quymô trong cuộc nổiloạn An Lộcsơn (755–763), vốnđã tànphá vùng Trungnguyên và đẩy nhiều người phươngbắc xuống vùng Lĩnhnam. Vì lýdo này, các cộngđồng sơkhai của người nói tiếng Quảngđông hiệntại đã tựnhận mình cùng với những nhóm Hoakiều khác ở Việtnam là “ngườiHoa” (華人 Huárén), trongkhi ngườiViệt đượcgọi bằng tộcdanh ‘ngườiKinh’.




    FHình 2: Bảnđồ Lưuvực Sông Dươngtử
    Source: http://en.wikipedia.org/wiki/File:Map_of_the_Yangtze_River.gif

    Liênquan đến ngônngữ tiền‑Việtic, sựphânhoá trong các nhóm Việt‑Mường đã đánhdấu một ranhgiới quyếtđịnh giữa những cộngđồng bảnđịa chốnglại sựđôhộ của TriềuHán trên đấttổ và những cộngđồng chấpnhận, hợptác với ngườiHán caitrị. Tươngtự như sự pháttriển của tiếngQuảngđông, các dạng tiền-Hán‑Việt đã được tíchhợp tíchcực vào ngônngữ Việtic cổ, và theo thờigian đã pháttriển thành tiếng Annam sơkhai. Quátrình này diễnra qua nhiều thếkỷ và đạtđỉnh trong thờikỳ tiếngViệt Trungcổ, đặcbiệt thôngqua sựtiếpthu các biếnthể ngônngữ Đời Đường bởi tầnglớp tinhhoa ngườiKinh đang hìnhthành. Nó baogồm sự bảnđịahoá từvựng và cách diễnđạt của tiếngHán Trungcổ, cùngvới những thayđổi dầndần, tinhvi về ngữâm, cúpháp, và ngữnghĩa.

    Quátrình này có khảnăng đã bắtđầu trướckhi và tiếptục lâudài sau sựsụpđổ của nhàĐường (618–906). Nó baogồm sựthíchứng và bảnđịahoá kho từvựng Trungcổ trong các thờikỳ đôhộ, phùhợp với quátrình pháttriển rộnghơn của từvựnghọc Hánngữ một quỹđạo được địnhhình bởi những môhình kếttinh ngữâm và ngữnghĩa thayđổi qua các thờikỳ Hán và Đường (Tang Lan 1965, tr. 110).

    Do cùng chiasẻ nềntảng lịchsử sâuđậm, các môhình biếnđổi ngữâm của Hán‑Việt và Quảngđông, vốn đều bắtnguồn từ tiếng Trungcổ, dườngnhư đã tiếptục theo những môhình ngữâm tươngtự trong cả vănviết lẫn vănnói. Sựtiếntriển songhành này kéodài ítnhất đến thếkỷ thứ 10, sauđó hai ngônngữ phânkỳ. Trong thờikỳ chung, cảhai đều sửdụng tiếngHán Trungcổ làm ngônngữ giaotiếp của Vươngquốc NamHán. Theo thờigian, kho từvựng của chúng hoặc biếnmất do trùnglặp dưới dạng từđôi đồngnguyên, hoặc ổnđịnh thành những dạng riêngbiệt, như thấy trong Hán‑Việt một bên và cái gọi là ‘ngônngữ đờiĐường’  nay gắn với tiếng Quảngđông – ở bênkia.

    V) Disản Lâudài

    Những hìnhthức có nguồngốc Việt được sửdụng trong tầng Hán vẫn tồntại trong từvựng cơbản của tiếngViệt: voi (‘elephant’) < 為 wēi, chuộtshǔ ‘mouse’, ‘ox’. Lớp Hán‑Việt pháttriển chủyếu qua sựtiếpxúc qua hai triềuđại Hán và Đường: ‘chicken’ < 雞 , buồng ‘room’ < 房 fáng, chài/lưới ‘net’ < 羅 luó, xe ‘carriage’ < 車 chē

    Sosánh với tiếng Quảngđông chothấy disản songhành. SV quốcgia (國家 guójiā, ‘nation’) tươngứng với Quảngđông /gok7ga5/, trongkhi VS nướcnhà (‘nation’) phảnánh cùng gốc, dù thường được hiểulại là ‘nước’ + ‘nhà’. VS gàtrống tươngứng với Quảngđông 公雞 gung1gai1. HánNôm đôiđũa tươngứng với tiếng Hảinam 箸子 zhúzi ‘chopsticks’, dù Quảngđông ưa dùng 筷子 faai3zi2 vì lýdo tâmlinh.

    Những tươngứng này chothấy cách các nhântố Việt tầngnền và lớp Trungcổ Hán đã dunghợp khácnhau trong từng ngônngữ. Quảngđông vẫnđuược giữkhưkhư trong họ Ngữ‑Tạng, trongkhi tiếngViệt pháttriển như một ngônngữ có nguồngốc Việt, tíchhợp Hán.

    Trong trườnghợp tiếngViệt, những người có ítnhiều tiếpxúc với ngônngữhọc lịchsử cóthể nhậnra các tươngứng này khi được giảnggiải bằng quyluật biếnđổi ngữâm, nhưng họ thường khángcự ýtưởng rằng từ HánNôm nướcnhà có chung gốc với từ HánViệt quốcgia. Sựchốngbáng này mộtphần bắtnguồn từ cách hiểu thivị coi nướcnhà là tổhợp của HN nước (‘water’) và  HN nhà (‘home’), phảnánh một tầmnhìn lýtưởng về Việtnam như một vùngđất có chínhtrị đứchạnh, được các nhànho đời Đường catụng trong thica. Cáchđọc này của 水 shuǐ HV thuỷ) và 家 jiā (HV gia), tuy có ýnghĩa ngữnghĩa, lại chekhuất nguồngốc Hán tổhợp 國家 guójiā (HV quốcgia). Bàihọc đầu thếkỷ 20 trong sách Tamthiêntự Kinh cho họcsinh khẩutụng ‘gia/nhà, quốc/nước’ chothấy rằng cặpđôi này đã truyềnđạt một ýnghĩa trừutượng gầnvới ‘quốcgia’.

    Dù cách hiểu thơmộng này cóthể chấpnhận về mặt ngữnghĩa, nó lại cảntrở việc nhậnbiết sự liêntục ngữâm nối HN nướcnhà với HV quốcgia và Quảngđông /gok7ga5/. Tăngthêm sựphứctạp cho vấnđề, dạng HV nhànước ngàynay lại đặtnặng ýnghĩa ‘cơquan chínhphủ’, tạo thêm một tầng pháttriển hìnhthái và ngữnghĩa, trongkhiđó tự bảnthân từvị nó đã đảongược thứtự hìnhvị gốc từ ngànxưa đểchỉ kháiniệm ‘quốcgia’.

    Baonhiêunăm saukhi Vươngquốc NamHán chấmdứt vào năm 971, và dù Annam đã táchra từ năm 939, tiếng Quảngđông và âm HánViệt vẫn còn giữ những tươngđồng ngữâm đángkể thừahưởng từ tiếng đờiĐường mãivềsau. Tuyvậy, vào thờikỳ đó, hai ngônngữ đã phânbiệt. Một tìnhhuống tươngtự được nghethấy trong biếnthể địaphương của tiếngQuảngđông ở Quảngtây, gọi là Bạchthoại (白話). 

    Sựchuyểnbiến này bắtnguồn từ sự hỗnhợp tộcngười giaitầng với những cưdân đếntừ phươngbắc của Đếquốc Đại Đường. Vùng Hoanam Trungquốc, đặcbiệtlà Quảngchâu, đã tiếpthu những lànsóng địnhcư lớn do biếnđộng như nạn Loạn An Lộcsơn dưới triềuvua Đường Minhhoàng. Nạnđói lanrộng cànglàm thayđổi cânbằng nhânkhẩu. Cuộcxungđột dẫn đến didời và tửvong hàngloạt, được Bá Dương (1982–1992, Tập 49) ghilại.

    Trongkhiđó, tiếngQuảngđông đã trảiqua nhiều giaiđoạn biếnđổi do các yếutố xãhội‑lịchsử baoquanh. Chođến thếkỷ 10, cóthể nóirằng ngườinóitiếng Quảngđông ở Quảngchâu và ngườiAnnam ở Tràngan Kẻchợ (Tonkin) vẫncòn giaotiếp được bằng những dạng ngônngữ Hánhoá như Việt Bạchthoại, như được ghilại trong các tưliệu về tiếpxúc giữa Quảngđông và Quảngtây. Trong tầngnền Việt bảnđịa, một số từcăn cơbản vẫncòn chung giữa tiếng Quảngđông và tiếngViệt.

    Bảng 4 – Từcăn tiếngViệt dùng thườngngày của tiếngViệt và tiếngQuảngđông

    HánNôm chữHán Âm Quảngđông Ýnghĩa tiếngAnh
    lưỡi /lej6/ 'tongue'
    bông /fa1/ 'flower'
    biếu /pej3/ 'give'
    khui /hoj5/ 'open'
    xơi /sik8/ 'eat'
    uống /jam3/ 'drink'
    thấy /taj3/ 'see'
    đéo /tjew3/ 'curse'
    ỉa /o5/ 'defecate'

    Tươngtự, trongkhi tiếngQuảngđông vẫn giữ cách phátâm từ Hán Trungcổ của 走 là ‘zow3’ với nghĩa ‘đi’ trong tiếngViệt, thì tiếng HánViệt tẩu (/təw3/) đã chuyểnsang HánNôm thành chạy (‘run’). Nghĩa này tươngứng với tiếngQuanthoại và Quảngđông hoei3/hoeỉ2, và liênkết với âmQuanthoại /qù/ 去 (HánViệt khứ). Mốiliênhệ này mởrộng thành một tậphợp từđôi như HV khu, HV khử, HV khứ, với các biếnthể gồm HN khừ, HN khự, HN khứa, và HN đi, cũng như dạng phụâm của phươngngữ Hànội /xɨ5/. Tiếng Háncổ thời Hán, những từ này cóchung một lõinghĩa thốngnhất, vềsau mởrộng baogồm ‘loạibỏ’, ‘trừkhử’, và ‘cắtđứt’.

    Các từcăn bổsung phảnánh tàndư của tầngnền Taic‑Việt trong cả tiếngViệt và tiếngQuảngđông. Hai ngônngữ này đã pháttriển từ những nhánh Tai‑Kadai khácbiệt dàilâu trướckhi ngườinói của chúng hoànhập sống với trong Vươngquốc NamViệt từ năm 204 TCN. Chẳnghạn, 雞公 jīgōng tươngứng với cả VS gàtrống/gàcồ và tiếngQuảngđông cổ /kaj5koŋʷ1/. Sựtươngứng này chothấy một mốiliênhệ Việt chung ở tầngnền, với cả hai hìnhthức đều phátxuất từ cùng một nguồngốc trướckhi Quảngđông bị Hánhoá.

    Bảng 5 - Từđồngnguyên và từđồngnghĩa trong phươngngữ

    Một chủđề lặplại trong nghiêncứu Hán‑Việt là sự cùng tồntại giữa các hìnhthức HánNôm với các hệthống âm HánViệt. Những từđôi này thường giữ được sự liêntục tầngnền Việt đồngthời thểhiện lớp phủ tiếngHán Trungcổ.

    HánViệt/Hán HánNôm Quảngđông Ýnghĩa tiếngAnh
    quốcgia     國家 guójiā nướcnhà /gok7ga5/ 'nation'
    thuỷ          水 shuǐ nước /seoi2/ 'water'
    gia            家 jiā nhà /gaa1/ 'home, family'
    tẩu            走 zǒu chạy /zau2/ 'run, go'
    kêcông      雞公 jīgōng gàtrống/gàcồ /gung1gai1/ 'chicken, rooster'

    Mộtmặt, môhình ngữpháp hiệntại trongđó tínhtừ đứngtrước danhtừ, như trong tiếng Quanthoại gōngjī 公雞 (= tiếngAnh ‘male bird’), phảnánh ảnhhưởng lớp tiếngHán được đặtlên tầngnền Việtcổ. Trong tiếngViệt, hìnhthức tươngứng là HN gàcồ, theo môhình [danhtừ + tínhtừ]. Cókhảnăng rằng trong giaiđoạn pháttriển sớm, khi cảhai hệthống vẫncòn ở giaiđoạn hìnhthành của tínhđaâm vào cuối thời Háncổ hoặc đầu thời Hán Trungcổ, hai ngônngữ này đãcó sự tươngđồng cấutrúc lớnhơn trong tínhđaâm, đặcbiệt trong tiếngQuanthoại của thờikỳ Hán đôhộ.

    Khi từ đaâmtiết trởnên phổbiến hơn, ngườinói tiếngHán phânbiệt các từ đồngâm bằngcách đặt yếutố bổnghĩa trước hìnhvị chính để tạo từ đaâm mới. Ngượclại, tiếngViệt giữ thóiquen Việtcổ là đặt danhtừ trước bổnghĩa, songhành với môhình [danhtừ + bổnghĩa].

    Từ gócđộ ngônngữ, ngườiViệt ở mọi tầnglớp xãhội cóthể dễdàng tiếpthu tiếngQuảngđông nói gầnđúng cách phátâm của nó, phảnánh một mứcđộ tiêucận giữa hai ngônngữ. Các yếutố Hán nổibật trong tiếngQuảngđông nhìnchung tươngtự với những gì tìmthấy trong từvựng Hán‑Việt, vì cảhai đều pháttriển thôngqua tiếpxúc lâudài với những didân từ phươngbắc từ các triềuđại Trungquốc tiếpnhau trong hơn hai thiênniênkỷ. Mặcdù có ảnhhưởng này, ngườinói tiếngQuảngđông và ngônngữ của họ vẫngiữ sựkhácbiệt — khôngchỉ so với tiếngViệt màcòn với các phươngngữ vùngmiền khác ở nướcTàu.Theo thờigian, thànhphần dâncư của dânsố Quảngđông ngàycàng trởnên hỗnhợp do lànsóng dicư từ các vùng phươngbắc nhấtlà vào thời thịnh Đường. Quátrình này tiếptục khi lụcđịa Trungquốc rơi vào sựthốngtrị của nhiều thếlực phươngbắc, gồmcả người Nữchân thời BắcTống, người Thátđát của nhàLiêu, người Môngcổ nhàNguyên, và người Mãnchâu. nhàThanh Đángchúý, dâncư Quảngđông chủyếu được hìnhthành từ hậuduệ tựnhận mình là thầndân của nhàĐường, đặcbiệt từ thếkỷ thứ 7 trởđi. Hậuduệ của họ  được côngnhận là cộngđồng dântộc Hoa tại Việtnam và các vùng khác của ĐôngnamÁ.

    Trong cách dùng hiệntại, tiếngViệt và tiếngQuảngđông khôngcòn thểhiện những tươngđồng ngữnghĩa và cúpháp như từng có. Chẳnghạn, thuậtngữ tiếngViệt hiệntại gàtrống đốinghịch với dạng tiếngQuảngđông cổ gung1gai1 (公雞), một sựphânkỳ phảnánh những chuyểnbiến lịchsử trong mốiliênhệ ngônngữ.

    Những khácbiệt này còn được địnhhình bởi mứcđộ ảnhhưởng Hán khácnhau. Tácđộng của ngườiHán, cả trướcnăm 111 TCN và trong thờikỳ tiếngHán Trungcổ bắtđầu từ thếkỷ thứ 7, đã đểlại những dấuấn ngữâm và ngữnghĩa lâudài. Chẳnghạn, tiếngViệt vẫn dùng đôiđũa, một thuậtngữ đồngnguyên với 箸子 zhúzi (‘chopsticks’). Ngược lại, tiếngQuảngđông, giốngnhư tiếngQuanthoại, tránh dùng chữ 箸, vì sự tươngđồng ngữâm với đổ 倒 (dǎo, HV ‘đảo’) mang ýnghĩa tiêucực. Thayvàođó, họ ưa dùng kuàizi (筷子) hoặc faai3zi2, trongđó 筷 đồngâm với 快 (kuài, VS ‘mau’), một thuậtngữ gắn với tínngưỡng tâmlinh trong vănhoá Hoanam, đặcbiệt ở những vùng có lịchsử đilại bằng ghethuyền. (7)

    Mặcdù tiếngQuảngđông vẫn giữ các yếutố tầngnền Việt tổtiên như tiếngViệt, nó vẫnđược phânloại trong họ HánTạng. Sựphânloại này chủyếu  dựavào lớp từvựng Hán Trungcổ phongphú, vốnđã lấnát ảnhhưởng của các từcăn Việtcổ. Xuyênsuốt lịchsử, tiếngQuảngđông baogiờ vẫn nằmlọt trongvòng ảnhhưởng vănhoá Hán và sựcaitrị liêntục cóthể truyngược ítnhất từ triềuvua Triệu Đà của Vươngquốc NamViệt, và vềsau được củngcố bởi những lànsóng dicư trong thờikỳ thịnhvượng của Đếquốc Đại Đường. Vìvậy, khôngcógì ngạcnhiên khi tiếngQuảngđông thườngđược gọi phichínhthức là ‘ngônngữ Đường’ (唐話, QĐ Tong4waa6‑2).

    Thựcvậy, việc xếp tiếngQuảngđông vào họ Hán‑Tạng là có cơsở vữngchắc, được địnhhình bởi cả những yếutố địnhlượng và địnhtính. Nhưđãnói, ngoạitrừ phần chiasẻ với mộtsốít từvựng Hán‑Việt cơbản, từvựng lõi của cả tiếngQuảngđông và âm HánViệt đều bắtnguồn chủyếu từ cùng một nguồn Hán Trungcổ. Nguồngốcchung này củngcố sự hiệndiện của tiếngQuảngđông trong khung Hán‑Tạng và, theođó, gợimở việc đánhgiálại xem tiếngViệt cóthể cũng được đặt trong phânloại này haykhông.

    Nhiệmvụ hiệntại của những nhàngữhọc, vìthế, là tiếntới những phântích sosánh nhằm đánhgiá vịtrí của Hán‑Việt và Quảngđông trong bốicảnh rộnghơn của ngônngữhọc lịchsử Hán Trungcổ. Về mặt nhânchủng, khi xétđến tầngnền Việt‑trước‑Hán ('Yue'-cổ), cả truyềnthống của ngườiChoang và ngườiViệt đều gợiý rằng ngườiViệt (越, Việt) và ngườiQuảngđông (粵, Jyut) cóthể đã xuấtphát từ những nhánh khácbiệt của Việt (戉 Yuè) trước thếkỷ thứ 2 TCN (xem Truyệncổ Dòng BáchViệt – dchph), về truyềnthuyết thanhkiếm 'Thầncung Bảokiếm'). Các cộngđồng nói Jyut sớm, gắn với Báihuà (白話), nhiều khả năng có nguồngốc Choang (壯族), mởrộng từ QuảngĐông (廣東) sang vùng nay là Quảngtây (廣西). Sựtươngứng giữa hai địadanh này củngcố mốiliênhệ giữa TâyÂu (西甌 Xī'Ōu) và ĐôngÂu (東甌 Dōng'Ōu), trongđó sự tươngđồng ngữâm của 壯 (OC /ʔsraŋs/) và 廣 (OC /kʷaːŋʔ/) phảnánh một môhình liêntục vùngmiền. Tựdanh của người Choang /Bố‑/ đốinghịch với tộcngữ /Bod/ như đãđược bàntới trướcđây.

    Sựphânbố của các bộtộc BáchViệt baophủ vùng vốnđược gọilà Lĩnhnamđạo (嶺南道 Lingnan Dao). Đángchúý, một chuỗi từvựng liênkết các thuậtngữ như Bốchuang, Bốthổ, Bốỷ, Bốbản, và Bốviệt với gốc Bod, vốn đồngnguyên với BaiYue, BáViệt, BáchViệt – những tên từng dùng đểchỉ các dântộc bảnđịa.

    Kếtluận

    Cũngnhư khôngcó nhóm dântộc nào cóthể tựnhận là hoàntoàn “thuầnHán”, thì cũng khôngcó dòngdõi nào “thuầnViệt” hoàntoàn. Lịchsử Việtnam được đánhdấu bởi sựdunghợp giữa những didân ngườiHán từ Đạilục Trungquốc, và các cộngđồng Việt phươngnam. Chính têngọi “Việtnam”, “ngườiViệt phươngnam”, đã thểhiện disản kép mà chỉcó những dântộc cùng sửdụng chung tổhợp dunghợp từvị Việt-Hán-Tạng này. Vìthế chonên nghiêncứu này sẽ nằmchung trong tuyểntập Ýthức mới về nguồngốc tiếngViệt.

    Khác với các cộngđồng ngườiHoa ở những nơikhác ở vùng ĐôngnamÁ, ngườiHoa tại Việtnam hoànhập nhanhchóng – chỉ trong khoảng hai thếhệ, hậuduệ sinhra trên đấtViệt thường tựnhận là dântộc Kinh. Qua nhiều lànsóng địnhcư tiếptục theo hướngnam và sựhoànhập với các nhóm bảnđịa, những cộngđồng hỗnhợp này đã kếttụ thành đasố dântộcKinh, vốn địnhhình nên nước, người, và tiếng Việtnam hiệntại.

    TiếngViệt vìthế hiệntồn khôngphải như một dịbiệt Môn‑Khmer, mà như một ngônngữ có sự thừahưởng ngônngữ giaitầng: gốc Việt, lớp phủ Hán, và những quanhệ Hán‑Tạng mậtthiết. Chậpnhận đặtra câuhỏi “TiếngHán Saomà Giống TiếngViệt Đếnthế?” chínhlà thừanhận rằng tiếngViệt đã tồntại trước, và tiếngHán chỉ xuấthiện vềsau trên cùng mảnhđất Hoanam vốn đã thuộc sựthốngtrị của Trungquốc từlâu.



    Sách Thamkhảo

    • Aitchison, Jean. (1994). Language change: Progress or decay? Cambridge: Cambridge University Press.
    • Alves, Mark J. (2001). What’s so Chinese about Vietnamese? In Graham W. Thurgood (Ed.), Papers from the Ninth Annual Meeting of the Southeast Asian Linguistics Society (pp. 221–242). Arizona State University.

    • Alves, Mark J. (2007). Categories of grammatical Sino‑Vietnamese vocabulary. Mon‑Khmer Studies, 37, 217–229.

    • Anttila, Raimo (Ed.). (1989). Historical and comparative linguistics. Amsterdam/Philadelphia: John Benjamins.

    • Bloomfield, Leonard. (1933). Language. New York: Henry Holt.

    • Bynon, Theodora. (1977). Historical linguistics. Cambridge: Cambridge University Press.

    • Ferlus, Michel. (2012). Linguistic evidence of the trans‑peninsular trade route from North Vietnam. Mahidol University / SIL International.

    • Haudricourt, André Georges. (1954). Comment reconstruire le chinois archaïque. Word, 10, 351–364.

    • Haudricourt, André Georges. (1961). The limits and connections of Austroasiatic in the Northeast. In Norman Zide (Ed.), Studies in comparative Austroasiatic linguistics (pp. 123–140). The Hague: Mouton.

    • Kelley, Liam C. (2012). The biography of the Hồng Bàng clan as a medieval Vietnamese invented tradition. Journal of Vietnamese Studies, 7(2), 87–122.

    • Lü, Shih‑P’eng. (1964). Vietnam during the period of Chinese rule. Hong Kong: University of Hong Kong.

    • Nguyễn, Tài Cẩn. (1979). Nguồn gốc và Quá trình Hình thành Cách Đọc Âm Hán‑Việt. Thành phố Hồ Chí Minh: Nhà xuất bản Khoa học Xã hội.

    • Nguyễn, Tài Cẩn. (2000). Giáo trình Ngữ âm Lịch sử tiếng Việt. Thành phố Hồ Chí Minh: Nhà xuất bản Giáo dục.

    • Sagart, Laurent, & Baxter, William. (2011). Old Chinese reconstruction project. Retrieved from https://ocbaxtersagart.org

    • Sidwell, Paul. (2010). The Austroasiatic Central Riverine Hypothesis. Journal of Language Relationship, 4, 117–134.

    • Sun, Tianxin. (2011). Yuenan Han Ziyin de Lishi Cengci Yanjiu 越南漢字音的歷史層次研究. Taiwan Pedagogy College.

    • Taylor, Keith Weller. (1983). The birth of Vietnam. Berkeley: University of California Press.

    • Wiens, Herold J. (1967). Han Chinese expansion in South China. USA: Shoe String Press.

    CHÚTHÍCH


    (1)^ Vídụ, dạng nguyênthuỷ /krong/ có quanhệ đồngnguyên với cả tiếngViệt ‘sông’ và chữHán 江 jiāng (HV ‘giang’, QĐ /kong1/). Trongkhi dạng thứnhất được thừanhận như đã trìnhbày, dạng thứhai cóthể chứngminh qua bộphận ngữâm 工 gōng (HV ‘công’). Sự tươngứng ngữâm này không cầnphải chứngminh thêm, vì biếnthể phátâm từ 工 /kong/, vốn gópphần vào cấutrúc ngữâm của 江 jiāng, củngcố thêm tínhhợplý của gốc từnguyên Việt tiền‑Hán làđã tồntại trướcđó.

    (2)Hántrung: Trong thờikỳ Tần‑Hán, Quận Hántrung (漢中郡) phíatây bắtđầu từ Miệndương Dươngbìnhquan, phíađông đến Vânquan và Kinhsơn, kéodài hàng nghìn dặm. Thời nhàTần đã thiếtlập Quận Hántrung, trịsở đặt tại Namtrịnh, gần khuvực Huyện Namtrịnh thuộc thànhphố Hántrung ngàynay. Cuối nhàTần, các thếlực chínhtrị tranhgiành; sau yếntiệc Hồngmôn, Lưu Bang (劉邦) đã xưngthần với Hạng Võ (項羽), và Hạng Võ phong ông làm Hánvương. Sửký ghilại rằng Lưu Bang khá thấtvọng, mưusĩ Tiêu Hà (蕭何) khuyênrăn: “Ngạnngữ có câu ‘Thiên Hán’, danhxưng ấy rất đẹp.”

    Trong thờikỳ ở Hántrung, Lưu Bang ẩnnhẫn chờthời, ápdụng chiếnlược của Hàn Tín (韓信) “Minh tu sạnđạo, ám độ Trầnthương”, phong Hàn Tín làm đạitướng, rồi bấtngờ tấncông chiếm ba vùng Tần, cùng Hạng Võ tranhhùng, sử gọi là “Hán-Sở Tranhhùng”. Cuốicùng Lưu Bang giành thắnglợi quânsự; vì nguyên phongđịa của ông ở Hántrung nên được gọi là Hánvương. Sau khi dờiđô đến Trườngan và lập triềudại thốngnhất thứhai trong lịchsử Trungquốc, quốchiệu được gọi là “Hántriều”, và Lưu Bang đượcxưng là “Hán Caotổ” (漢高祖).

    Ngàynay, “Hántộc” của Trungquốc chính là têngọi bắtnguồn từ Hántriều; Hántrung là cộinguồn của danhxưng ngườiHán, và còn lưugiữ nhiều ditích, hiệnvật đời Hán như Bái Tướng đàn (nơi Lưu Bang bái Hàn Tín), Hán Đài, sạnđạo, v.v. Vào thờikỳ Hán Vũđế, người Thànhcố là TrươngKhiên (張騫) đã đisứ Tâyvực, trởthành sựkiện đánhdấu sựhưngkhởi của “Conđường Tơlụa”. (Nguồn: Wikipedia)

    (3)Political Influence on Linguistic Policy: The People's Republic of China's language policies under Xi Jinping's administration (beginning in 2017) explicitly restricted local TV programs from broadcasting in regional dialects, mandating exclusive use of Northern Putonghua. This exemplifies political intervention in linguistic development, a subject explored in greater depth in forthcoming chapters.

    (4)^ "Bod" is simply another form of the name “Bak,” as in 百姓 (Baixing), 百越 (BáchViệt or BaiYue), discussed by Lacouperie (ibid., see Chapter 9):

    "Bak was an ethnic and nothing else. We may refer, as proof, to the similar name — rendered, however, by different symbols — which they gave to several of their early capitals: PUK, POK, PAK, all names known to us after ages, and whose similarity to Pak and Bak cannot be denied. In the region from which they had come, Bak was a well‑known ethnic name; for instance, Bakh in Bakhdhi (Bactra), Bagistan, Bagdada, etc., and it is explained as meaning 'fortunate, flourishing."

    This interpretation aligns with what the same author discusses in Chapter Six (Lacouperie, ibid., pp. 116‑119) concerning the ancestral Bak of the early Chinese, in contrast to the pre‑Chinese populations.

    (5)Linguistic Considerations in Transliteration: In this paper, all transliterations of historical names follow Mandarin pronunciations for ease of reference, though their modern phonetic forms may not accurately reflect how they were originally spoken. For instance, the contemporary

    • Yue (越, 粵, 戉, 鉞) → Viet
    • NanYue (南越) → NamViệt
    • OuYue (歐越) → ÂuViệt
    • Annan (安南) → Annam
    • LuoYue (雒越) → LạcViệt
    • MinYue (閩越) → MânViệt
    • DongYue (東越) → ĐôngViệt
    • WuYue (吳越) → NgôViệt

      Additionally, phonetic reconstructions vary, and not everyone agrees on the ancient pronunciation. Some scholars propose /Viet8/, while others favor /Jyet8/ or /Jyut6/. This uncertainty is reflected in modern Vietnamese dialectal pronunciation, where Việt is articulated differently in the southern sub-dialect, alternating between /v-/, /j-/, and /z-/.

      (6)Yue Loanwords in Chinese: Examples of Yue-derived loanwords in Chinese include:

      • đường: 糖 táng (sugar)
      • dừa: 椰  (coconut)
      • trầu: 柄榔 bīngláng (betel nut, cf. Muong 'blau')
      • sông: 江 jiāng (river, cf. Muong 'krong')
      • chó: 狗 gǒu (dog, cf. Proto-Vietic */klo/).

      (7)Wiktionary: Etymologically, the Old Chinese words for "chopsticks" were 箸 (OC *das) and 梜 (OC *keːb). 箸 is preserved in almost all Min dialects (Taiwanese tī, tū; Fuzhou dê̤ṳ) and some other dialects, especially those in some contact with Min; it is also preserved in loans to other languages, e.g. Korean 젓가락 (jeotgarak), Vietnamese đũa and Zhuang dawh. Starting from the Ming Dynasty, the change to 筷子 occurred in Mandarin, Wu and some Cantonese dialects. The 15th century book Shuyuan Miscellanies (《菽園雜記》) by Lu Rong (陸容) mentioned this change: 如舟行諱「住」……,以「箸」為「快兒」 As mariners regarded 住 (zhù, “to stay; to stop (in the sea)”) as a taboo […], they called 箸 (zhù, “chopsticks”) 快兒 (lit. "quick + diminutive suffix"). The bamboo radical (竹) was later added to 快 to form 筷.